Những sự thật cần phải biết
(2) - Việt
Nam Cộng Hòa - Nạn nhân của chính sách “Ngậm máu phun người”
Đặng Chí Hùng (Danlambao) - Thưa các bạn,
là một người trẻ tuổi,
chưa một
lần được biết đến
ngôi trường của Việt Nam Cộng
Hòa (VNCH), cũng chưa từng
được sống dưới chế
độ tự do non trẻ đó, tuy nhiên qua nhiều sách báo, tài liệu và nhân chứng sống, cộng
với những suy nghĩ của mình, tôi nhận thấy một
điều đó là một chế độ,
một nhà nước khác hẳn với những
lời tuyên truyền của cộng
sản.
Có một
câu hỏi làm tôi day dứt gần 10 năm trời
khiến tôi phải tự mình đi tìm câu trả
lời cho nó đó là: “Tại sao một chế
độ thối nát, được quy chụp là Ngụy quân, ngụy
quyền lại được người
dân thương nhớ,
tiếc nuối?”. Và cuối cùng tôi cũng tìm ra câu trả lời cho câu hỏi
đó trong bài này đó là “Việt
Nam Cộng Hòa chỉ là nạn nhân của
một chính sách ngậm máu phun người của đảng
cộng sản Việt Nam”. Vì sao tôi nói vậy? Vì không có một
chế độ xấu xa nào mà hàng triệu công dân của
nó ở Hải ngoại lẫn
những người vẫn còn ở
lại trong nước đã từng sống
trong chế độ đó và thân nhân họ, thậm chí những
người miền Bắc có tư duy đều thương tiếc.
Con người ta có một tâm lý chung đó là luôn muốn quên đi cái dĩ vãng xấu xa, không tốt đẹp. Vậy
khi hàng triệu người dù cho phải ly tán vẫn nhớ về
nó thì đó không thể là điều xấu xa. Đó chính là câu trả lời
chính xác nhất.
Thật
ra bất cứ một xã hội
nào cũng có mặt hạn chế, ngay cả
nước Mỹ nhân bản và dân chủ
hiện nay cũng còn nhiều mặt cần
sửa đổi. Việt Nam Cộng
Hòa không phải là ngoại lệ. Tuy nhiên trong một
chừng mực nhất định
thì những hạn chế đó sẽ
dần khắc phục theo thời
gian và trong cùng một thời điểm lịch
sử hay thậm chí ngay cả với xã hội
chủ nghĩa Việt Nam hiện tại thì VNCH xứng
đáng dân chủ gấp vạn lần
thật sự chứ không nói dối
trơ trẻn
của bà Doan. Đó là lý do
tôi viết bài này để chứng minh cho bạn
đọc những sự thật
về một nhà nước dân chủ
non trẻ nhưng đã phải
chịu chính sách ngậm máu phun người của đảng
cộng sản Việt Nam.
Tôi viết
bài này xin giành tặng
cho tất cả bạn đọc
với mong muốn:
Với những người yêu VNCH dù đã từng
sống hay chỉ biết đến
qua sách vở thì như một lời khẳng định
chắc chắn rằng những
gì họ đã yêu mến không hề nhầm lẫn.
Với những người bị
lừa dối hi sinh cho đảng cộng sản
như thế
hệ cha ông tôi thì như một lời chân tình để giúp họ thật
sự nhận ra bản chất
của đảng cộng sản
VN và ông Hồ đã lừa dối họ
bao lâu này.
Với những người còn vì miếng
ăn mà cố gắng lừa bịp
dân tộc hãy tỉnh lại đi, sự
thật không thể bị bưng bít được mãi. Đừng
tự lừa dối mình và lừa
dối nhân dân nữa, hãy để cho lương
tâm con người lên
tiếng trong tâm hồn mình.
Phần
1: Những sự thật về
Việt Nam Cộng Hòa
A. Mỹ
không hề xâm lược Việt Nam:
Trong bài “Những sự thật cần phải biết - Sự thật về Đại thắng mùa xuân 1975” tôi đã chứng minh thất bại của
VNCH không phải do hèn
kém như cộng
sản bịa đặt. Họ
bị đồng minh bỏ rơi và bị ép phải chết
yểu trong bàn cờ chính trị Mỹ-Trung cộng-Liên
Xô. Mỹ cũng có lỗi của mình trong việc
bỏ rơi đồng
minh nhưng cũng nên biết rằng nước
Mỹ cần phải tự
cứu mình trong lĩnh vực kinh tế và cũng do chính sách nhân bản, không muốn lún sâu chiến tranh, đồng thời phần
nào đấy là việc họ để
cho chính bản thân những người dân Việt
Nam nhận ra sự thật về
cộng sản.
Tuy nhiên có một
điều rất quan trọng mà tôi phải khẳng định
đó là Mỹ không hề xâm lược Việt
Nam như cách đảng cộng
sản Việt Nam vẫn tuyên truyền
để lừa bịp lòng yêu nước
của nhân dân ta. Tại sao tôi có thể khẳng định
điều này? Xin được trình bày như sau.
Thứ nhất, cho đến giờ phút này dù bất
cứ ai cũng có thể thấy người
Mỹ đến Việt Nam không lấy
của người Việt Nam dù chỉ
là một mm đất đai, hải đảo. Thậm
chí họ còn giúp chúng ta
xây dựng một Sài Gòn tự do và phồn vinh mà ở thời điểm
trước năm 1975 là Hòn Ngọc Viễn Đông, ngay cả
Singapore hay HongKong lúc ấy
còn phải xếp hàng từ xa. Vậy thì người
Mỹ xâm lược gì ở Việt
Nam? Đất không lấy, một giọt
dầu cũng không? Trung cộng trong khi đó thì sao? Trung
cộng đã lấy Hoàng Sa - Trường Sa "nhờ" công hàm bán nước 1958 của ông Chủ tịch nước
Hồ Chí Minh và ông Thủ tướng Phạm
Văn Đồng (xin xem thêm “Những sự thật không thể chối bỏ - phần 2 - Hồ Chí Minh và
vai trò trong công hàm 1958”). Và còn hàng trăm km biên giới ở Ải
Nam Quan, Thác Bản Giốc, hay Boxit Tây Nguyên. Ai
xâm lược đây? Người Mỹ không hề
xâm lược Việt Nam như cách đảng
cộng sản vẫn rêu rao, mà kẻ
xâm lược nước ta chính là “Đồng chí 16 chữ vàng, 4 tốt, tri ân sâu nặng” của đảng
cộng sản Việt Nam. Đây cũng là điều cho thấy
đảng cộng sản ngậm
máu phun người đối với người
Mỹ.
Thứ
hai, nếu nói người Mỹ xâm lược
Việt Nam thì có nghĩa là
họ phải đổ quân đội
vào Việt Nam trước khi đảng cộng sản
để lại quân du kích và cán bộ tại VNCH để
nằm vùng và khủng bố nhân dân miền
Nam. Nhưng thực
tế lại trái ngược lại. Xin quay lại
“Những sự thật không thể chối - phần 13 - Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn!” bạn đọc
sẽ thấy rõ.
Trong bộ
môn lịch sử chương
trình lớp 12, đảng cộng sản
Việt Nam tuyên truyền:
“Mặt trận Giải phóng Miền Nam” thành lập ngày 20/12/1960 với mục tiêu “đấu tranh chống quân xâm lược Mỹ và chính quyền tay sai, nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”.
“Mặt trận Giải phóng Miền Nam” thành lập ngày 20/12/1960 với mục tiêu “đấu tranh chống quân xâm lược Mỹ và chính quyền tay sai, nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”.
Nhưng thực chất thì sao? Năm 1961 khi ông Ngô Đình Diệm ký Hiệp ước quân sự với Mỹ, thì miền Nam lúc đó chỉ có các cố vấn Mỹ và một ít quân mang tính yểm trợ (US Support Troopes) với nhiệm vụ chính là xây dựng phi trường, cầu cống, đường sá...
Mỹ chỉ bắt đầu
đưa quân vào miền
Nam từ năm 1965, sau khi
ông Ngô Đình Diệm qua đời do cương
quyết từ chối không cho Mỹ
trực tiếp can thiệp quân sự. Điều này ai cũng biết
cả. Quân Mỹ thực sự
đổ quân vào miền Nam sau sự kiện vịnh
Bắc Bộ năm 1964 và để giúp VNCH chống lại cuộc
chiến đang ngày càng leo
thang của cộng sản ở
miền Nam. Cho đến năm 1964 cả về quân số
và trang bị quân sự của VNCH không thể
bằng VNDCCH (đã chứng minh trong “Những sự thật không thể chối - phần 3 - Bác, đảng đã bán những gì và để làm gì?”). Vậy thì vào thời
điểm 20.12.1960, làm gì
có bóng dáng lính Mỹ nào ở Miền Nam, làm gì đã có ai xâm lược mà chống? Đảng cộng
sản phải chống ai, chống
cái gì vào năm 1960? Chính sự
mâu thuẫn trong lời nói của cộng
sản cũng cho ta thấy bản chất
nói dối, lật lọng trong việc
kích động chiến tranh phi nghĩa tại Việt Nam và cho thấy
việc vu khống cho người Mỹ xâm lược
Việt Nam là vô lý.
Thứ
ba, hãy nghe người Liên
Xô nói về việc Mỹ đổ
quân vào Việt Nam để thấy người
anh cả của đảng cộng
sản Việt Nam biết rõ người Mỹ
không phải vào Việt Nam “xâm lược” như cách
tuyên truyền của đảng cộng
sản Việt Nam. Tài liệu của Liên Xô đăng trong cuốn sách có tên “Một
bước đi lớn” – bởi nhóm tác giả
đã từng hoạt động tại
KGB và do NXB Quân đội
Liên bang Nga xuất bản năm 1999 nói về hoạt động
tình báo của Liên Xô (đã
giới thiệu ở bài “Những sự thật không thể chối bỏ - phần 13 -Nướng dân đen
trên ngọn lửa hung tàn!”
có đoạn ở 128:
“Người
Mỹ chắc chắn không xâm lược
Việt Nam như cách người
Pháp thực dân làm trước năm 1945 nhưng Việt
Nam phải là một trong những tiền đồn
ngăn cản chủ nghĩa tư bản ở Á Châu bao gồm Bắc Triều
Tiên, Trung Hoa, Afghanistan...”
Thì ra người Liên Xô với những con mắt lão luyện của tình báo KGB đâu có cho rằng người Mỹ xâm lược và đô hộ Việt Nam như cách người Pháp thực dân. Người Liên Xô chỉ lo ngại cho chủ nghĩa cộng sản của họ bị người Mỹ đánh bại chứ họ không nói là người Mỹ xâm lược và đô hộ Việt Nam như cách cộng sản tuyên truyền. Đó là do chính sách ngậm máu phun người của cộng sản nhằm lừa gạt hàng triệu thanh niên bỏ xác vì quyền lợi của chóp bu cộng sản mà thôi. Đó chính là một trong những chiêu bài núp bóng “Giải phóng dân tộc” mà ông Hồ cùng đảng cộng sản thực hiện để nhuộm đỏ Việt Nam cho âm mưu của Trung cộng.
Thì ra người Liên Xô với những con mắt lão luyện của tình báo KGB đâu có cho rằng người Mỹ xâm lược và đô hộ Việt Nam như cách người Pháp thực dân. Người Liên Xô chỉ lo ngại cho chủ nghĩa cộng sản của họ bị người Mỹ đánh bại chứ họ không nói là người Mỹ xâm lược và đô hộ Việt Nam như cách cộng sản tuyên truyền. Đó là do chính sách ngậm máu phun người của cộng sản nhằm lừa gạt hàng triệu thanh niên bỏ xác vì quyền lợi của chóp bu cộng sản mà thôi. Đó chính là một trong những chiêu bài núp bóng “Giải phóng dân tộc” mà ông Hồ cùng đảng cộng sản thực hiện để nhuộm đỏ Việt Nam cho âm mưu của Trung cộng.
Thứ tư, thật ra mong muốn
người Mỹ vào Việt Nam đổ
quân để tạo cớ người
Mỹ xâm lược Việt Nam cũng nằm
trong âm mưu của
Trung cộng chỉ đạo cho ông Hồ
và đảng cộng sản Việt
Nam thực hiện. Trong cuốn sách “MAO: The Unknown
Story” của tác giả Jung Chang và Jon Halliday được phát hành năm 2005 do hai
nhà xuất bản Anchor Books và Random House
xuất bản, ở trang 470 có đoạn:
“Có một nơi gần Trung Quốc, nơi đã có người Mỹ, đó là Việt Nam. Cuối năm 1963, miền Nam Việt Nam có khoảng 15,000 cố vấn quân sự Mỹ. Kế hoạch của Mao là tạo tình huống làm cho Mỹ phải gởi thêm quân đội vào miền Nam…”
“Có một nơi gần Trung Quốc, nơi đã có người Mỹ, đó là Việt Nam. Cuối năm 1963, miền Nam Việt Nam có khoảng 15,000 cố vấn quân sự Mỹ. Kế hoạch của Mao là tạo tình huống làm cho Mỹ phải gởi thêm quân đội vào miền Nam…”
Thế là
đúng ra năm 1963, Trung cộng
cũng nhận thấy người Mỹ
chỉ có 15000 cố vấn mà thôi. Và chính Mao muốn ông Hồ
phải “tạo tình huống” để người
Mỹ phải đổ quân vào Việt
Nam. Đó chính là việc cố tình tạo ra “kẻ
thù” xâm lược để có cớ đánh VNCH và đổ
tội cho người Mỹ xâm lược
Việt Nam của Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh.
Thứ
năm, thêm một đồng minh của VNDCCH khẳng định người
Mỹ không hề xâm lược Việt
Nam như cách đảng cộng
sản tuyên truyền cho thấy những gì chúng ta đã và đang được nghe đảng cộng sản
chỉ là lừa bịp. Trong cuốn
sách có tên “Đối nghịch” của tác giả
J. Leroy - một nhà hoạt động xã hội
người Pháp và cũng là đảng viên đảng cộng sản
Pháp (giới thiệu ở bài “Những sự thật không thể chối bỏ - phần 14 - Ai làm cho Huế đau thương?”). Cuốn sách của ông đi sâu phân tích về tính chất đối lập
của đảng cộng sản
và các đảng phái khác và
dẫn chứng về cuộc
chiến Việt nam như là một sự đối nghịch
đỉnh điểm về ý thức
hệ. Trong trang 187 của cuốn sách in năm 2000 tại Pháp có nội
dung trích như sau:
“Một cuộc chiến tại Việt Nam là điều mà Hoa Kỳ không mong muốn, họ đến với Việt Nam khác hẳn lũ người độc ác của chúng ta trước đây. Nhưng họ phải đổ quân vào vì họ không muốn Liên Xô bành trướng tư tưởng của Mác, Lê Nin…”
Tác giả cộng sản Pháp này rất trung thực trong việc đánh giá người Mỹ không xâm lược Việt Nam như chính thực dân Pháp trước năm 45 mà họ chỉ vào Việt Nam trong tình thế bắt buộc chống lại sự bành trướng tư tưởng đỏ của Liên Xô.
“Một cuộc chiến tại Việt Nam là điều mà Hoa Kỳ không mong muốn, họ đến với Việt Nam khác hẳn lũ người độc ác của chúng ta trước đây. Nhưng họ phải đổ quân vào vì họ không muốn Liên Xô bành trướng tư tưởng của Mác, Lê Nin…”
Tác giả cộng sản Pháp này rất trung thực trong việc đánh giá người Mỹ không xâm lược Việt Nam như chính thực dân Pháp trước năm 45 mà họ chỉ vào Việt Nam trong tình thế bắt buộc chống lại sự bành trướng tư tưởng đỏ của Liên Xô.
Kết luận: Một kẻ
đi xâm lược không thể là kẻ đổ
quân vào sau khi đồng
minh của họ bị khủng
bố. Người Mỹ chỉ
đổ quân vào để giúp đồng minh chống
lại chủ nghĩa cộng sản bạo
tàn và độc tài. Người Mỹ chỉ
là một “kẻ thù” được dựng
lên với mục đích lừa dối dân tộc
trong chiêu bài “Chống Mỹ cứu nước”
của đảng cộng sản.
Việc tạo ra một kẻ
“xâm lược” giả tưởng này không khác gì việc người
ta cố tình dựng lên một hình ảnh “thế
lực thù địch” để nói về
đội ngũ đấu tranh dân chủ hiện nay ở
Việt Nam hay bóng ma “thế lực thù địch”
đang làm đảng “tự diễn biến”.
Một kẻ đi xâm lược không thể không áp bức, bóc lột và lấy đất
đai, tài nguyên của chúng
ta. Người Mỹ thì không làm điều đó, vậy họ
không thể là kẻ xâm lược.
Người
Mỹ đến Việt Nam với
mục đích chống lại sự
bành trướng chủ nghĩa cộng sản trên thế
giới và giúp VNCH chống lại làn sóng khủng
bố của đảng cộng
sản gieo rắc tại Miền
Nam. Họ không hề xâm lược Việt
Nam như cách đảng cộng
sản Việt Nam tuyên truyền, họ cũng là nạn
nhân của một chính sách ngậm máu phun người của đảng
cộng sản Việt Nam.
B. Việt
Nam Cộng Hòa không phải là chế độ
Ngụy Quân, Ngụy Quyền:
Nếu
không có kẻ xâm lược thì làm gì có kẻ làm tay sai “ngụy quân, ngụy quyền”? Như phần
A tôi đã chứng minh những tác giả trung lập và ngay cả những người
cộng sản Pháp, Liên Xô trong những nghiên cứu nghiêm túc của mình đã công nhận người Mỹ
không hề xâm lược Việt Nam đúng nghĩa. Vậy
thì những người đồng minh của
họ là VNCH có phải là tay sai bán nước như cộng sản nhồi
nhét vào đầu chúng ta hay
không? Không. Hoàn toàn không phải.
Đó là một chế độ dân chủ
non trẻ nhưng mang trong mình những
tư tưởng và
ý niệm tốt đẹp cho nhân dân. Tôi xin khẳng định
thông qua phần B này.
Nói như bà Dương Thu Hương một nữ văn sĩ miền
Bắc theo đoàn quân của CS Bắc Việt
vào Sài Gòn vào tháng 4 năm 1975 thì “Đó mới
là chế độ của nền
văn minh. Và thật chua
chát khi nền văn minh đã
thua một chế độ man rợ.
Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn
của lịch sử. Đó là bài học
đắt giá và nhầm lẫn lớn
nhất mà dân tộc Việt nam phạm
phải...” Và chính ông Võ
Văn Kiệt, cựu thủ tướng
của CHXHCNVN cũng phải thốt lên cái ngày 30/4 là ngày mà VNCH chính thức mất đi trên danh nghĩa nhưng còn
mãi tồn tại trong lòng người yêu dân chủ, tự do “Ngày của
triệu người buồn.”
1. VNCH có nền
kinh tế phát triển hơn hẳn VNDCCH:
Tại miền Nam dưới sự
lãnh đạo của ông Ngô Đình Diệm, cùng sự hỗ trợ
của Hoa Kỳ nhằm khôi phục kinh tế và nâng cao dân trí, trong thời điểm miền
Bắc có cải cách ruộng đất gây tai họa
thì miền Nam cũng có Cải cách điền địa và “Người
cày có ruộng” mang lại niềm vui cho nhân dân. Chính vì có những chính sách hợp lý, chế độ dân chủ
nên nửa trong của Việt Nam đã phát triển
nhanh chóng. Bằng chứng là Sài Gòn được coi là “Hòn Ngọc Viễn Đông”.
Ngay sau khi ông Diệm
bị giết hại thì nền
Đệ nhị Cộng hòa cũng đã có những nối
tiếp nền Đệ nhất
Cộng hòa để đem lại đời
sống no ấm cho nhân dân miền Nam. Dù có khó khăn do chiến tranh liên miên, đảng cộng sản
cho quân du kích nằm vùng
đặt bom, phá đường, tài sát dân lành thì nền kinh tế vẫn được
duy trì một đời sống hơn hẳn
so với VNDCCH. Bạn đọc hãy cùng tôi điểm
lại những tài liệu để thấy
sự thật này.
- Giai đoạn
1954-1956: Công nghiệp
khá nghèo nàn với số lượng nhà máy ít ỏi
có từ thời Pháp thuộc.
- Giai đoạn
1957-1967: là giai đoạn
bùng nổ của công nghiệp nhờ chính sách công nghiệp tích cực
của chính quyền và nhờ các biện
pháp bảo hộ nền công nghiệp
trong nước.
- Giai đoạn
1967-1972: có sự phân hóa
rõ rệt giữa các phân ngành. Những phân ngành như sản xuất đường và dệt
không được bảo vệ nữa
nên bị hàng ngoại tràn ngập bóp chết. Trong khi đó, những ngành như chế biến thực phẩm
phục vụ quân nhu, chế biến gỗ,
vật liệu xây dựng lại
phát triển mạnh. Đặc biệt,
ngành luyện kim phát triển rất nhanh mặc
dù miền Nam Việt Nam không có những mỏ kim loại.
Chính phế thải kim loại của chiến
tranh mới là nguồn nguyên liệu dồi dào và rẻ
cho ngành luyện kim. Trên
cơ sở sự phát triển của ngành luyện
kim, ngành gia công kim loại
cũng phát triển vượt bậc.
- Giai đoạn
sau 1972: Các ngành luyện
kim và điện vẫn phát triển với nhiều
nhà máy mới được xây dựng. Còn các ngành sản xuất vật
liệu xây dựng là những ngành suy giảm mạnh. Cơ cấu
công nghiệp của Việt Nam Cộng
Hòa tại thời điểm 1973 cho thấy
công nghiệp của Việt Nam Cộng
Hòa chủ yếu là công nghiệp nhẹ. Công nghiệp
nặng và hóa chất mới ở
trình độ sơ khai. Nguyên liệu
cho ngành chế tạo chủ yếu
phải nhập khẩu từ
nước ngoài.
- Năm 1973, chính phủ
đã tổ chức 2 vòng đấu thầu khai thác dầu
lửa ngoài khơi thềm lục địa. Nhiều
công ty khai thác dầu lửa nước ngoài đã tham gia, bất chấp
là tình hình an ninh chưa ổn
định. Chính phủ cấp giấy
phép cho sáu tổ hợp công ty dầu lửa được
khai thác 13 địa điểm trong một khu vực 82.000 km² mới
chỉ là 16% của thềm lục
địa. Tới tháng 10, 1974 hãng Mobil
khoan mỏ Bạch Hổ, tại
lô 04-TLD, tìm được dầu dưới độ
sâu trên 2,7 km. Ước tính
là vào cuối 1975, sẽ có ít nhất 20 giàn khoan. Sản xuất một
lượng dầu khả quan sắp
được bắt đầu muộn
lắm là vào cuối năm 1977. Các Công ty dầu đề nghị
Chính phủ hai điểm: thứ nhất,
cho công ty đào ngay mà không phải
qua thủ tục đấu thầu,
hành chánh; thứ hai, khi
khai thác được dầu sẽ chia đôi, một
nửa cho công ty, một nửa cho Chính phủ.
Sau 1975, các mỏ dầu này do Liên doanh
Vietsopetro của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam quản lý và khai thác.
Thứ nhất, số liệu
và nhận xét trên wiki có
links sau:
http://vi. wikipedia. org/wiki/Kinh_tế_Việt_Nam_Cộng_hòa:
http://vi. wikipedia. org/wiki/Kinh_tế_Việt_Nam_Cộng_hòa:
“Chính quyền
Việt Nam Cộng Hòa đã tích cực triển khai chiến
lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu.
Các hàng rào thuế quan và
phi thuế quan được dựng lên để
bảo hộ một loạt
ngành công nghiệp nhẹ. Kết quả
phải kể đến nhà máy giấy
đầu tiên ở Việt Nam: nhà máy giấy
Cogido An Hảo (1961) ở Biên hòa, thỏa mãn 30-40% nhu cầu tiêu thụ giấy trong nước
[4]; hai xưởng dệt Vinatexco và Vimytex với năng suất 13,2 triệu mét vải mỗi
năm; nhà máy thủy tinh
Khánh Hội năng suất 15.000 tấn/năm; hai nhà máy xi măng, một ở Hà Tiên, một
ở Thủ Đức với
năng suất 540.000 tấn mỗi năm; và đập
thủy điện Đa Nhim, hoàn thành năm 1961
[5]. Đồng thời, các loại máy móc, kim loại - những đầu
vào cho các ngành được bảo hộ - được
ưu tiên nhập
khẩu. Trong khi hạn chế nhập
khẩu, xuất khẩu được
khuyến khích. Một số mặt
hàng xuất khẩu còn được chính quyền
trợ cấp. Ngay cả tỷ giá hối
đoái cũng được điều chỉnh thuận
lợi cho xuất khẩu (thông qua trừ
đi một mức phụ đảm).
Ở nông
thôn thì Cải cách ruộng đất (lúc đó gọi
là "Cải cách điền địa") được
triển khai từ năm 1955 và kéo dài tới cuối năm 1960. Những
ruộng đất của địa
chủ bỏ hoang sẽ bị thu hồi
và cấp cho tá điền. Địa chủ
không được phép sở hữu quá 100 hecta đất
(riêng các đồn điền dù hơn 100
ha vẫn được phép). Số dư ngoài
100 ha sẽ bị buộc phải
bán cho chính quyền để bán lại cho tá điền.
Tá điền được yêu cầu lập hợp
đồng khai thác ruộng đất với
địa chủ, gọi là khế
ước tá điền trong đó có ghi mức địa tô mà tá điền
phải trả cho địa chủ.
Thời hạn khế ước
là 5 năm, có tái ký. Tá điền
có quyền trả đất và phải
báo trước chủ đất 6 tháng.”
Về thu
nhập bình quân, theo “số liệu kinh tế
- GDP” bình quân, ở miền Nam vào thời trước 1975 là 190USD. Thu nhập này tuy chưa cao mấy thời
đó, nhưng cao hơn ở các nước Thái Lan, Bangladesh, Ấn Độ,
và Pakistan. Trong khi đó 36 năm sau, GDP bình quân đầu người
của Việt nam là khoảng 1100 USD, thua xa Thái Lan
(khoảng 4000 USD).
Như vậy
rõ ràng sau khi nắm đất nước thì nền
kinh tế VNCH đã có những bước phát triển
vượt bậc và bước đầu
tạo ra dấu ấn cho nhân dân Việt
Nam.
Một thời Hòn ngọc Viễn Đông
Thứ
hai, năm 1950 nền kinh tế của Đài Loan gần
như không có gì đáng kể. Năm 1960 lợi tức đầu
người USD170 thua miền Nam lúc đó (190 USD). Năm
2010 Đài Loan có GDP khoảng
US$37.000/năm. Dự trữ ngoại tệ
400 tỉ USD. Năm 1954 kinh
tế Hàn quốc thua xa miền Nam lúc đó. Năm 2010 Hàn quốc có GDP khoảng US$20.757/năm. Dự trữ ngoại
tệ 311 tỉ USD. Năm 1959 Singapore được tự trị,
một quốc gia nghèo, nhỏ bé, thiếu tài nguyên, lúc đó thua miền Nam mọi lĩnh vực.
Năm 2010 Singapore có GDP US$43.000/năm. Dự
trữ ngoại tệ 300 tỉ
USD. Những con số mà tôi lấy thống kê trích từ
“Tạp chí kinh tế Châu Á” năm 2010 bạn đọc có thể
kiểm chứng.
Qua những
con số biết nói đó chúng ta thấy được gì? Đó là những
nước có nền kinh tế vượt xa cả
trăm lần CHXHCN Việt Nam hiện nay thì trước năm 1975 họ thua kém VNCH rất nhiều. Vậy
mà sau khi “thống nhất” đất nước
thì chúng ta có gì? Có chăng chỉ
là sự lạc hậu và thua kém. Vậy
thì VNCH đâu phải là một chế độ
bù nhìn? Họ bù nhìn tại sao lại làm cho thu nhập
bình quân của nhân dân
cao hơn cả
những nước kể trên. Và quan trọng
nếu với đà phát triển như con số đã nêu thì nếu còn tồn tại
VNCH sẽ là con rồng Châu Á thật sự chứ
không phải kiểu rồng đất,
rồng tre như CHXHCN Việt
Nam ngày nay.
Thứ
ba, nhìn chung đa phần
dân chúng thời đó vẫn sống ở
nông thôn, làm nghề nông
là chính. Với chương trình “Người
Cày Có Ruộng” đầu thập niên 1970, chính phủ đã chia hằng
triệu mẫu ruộng cho nông phu. Đời
sống dân chúng cải thiện đáng kể.
Mặc dù
miền Nam hiếm có những ngành công nghiệp
nặng, nhưng tiểu
thủ công nghệ phát triển mạnh. Các ngành dệt
vải, kim khí điện máy khá xôm tụ. Thương mại và các hoạt động tiểu
thương cũng sầm uất.
Cần kể thêm thái độ của người
dân. Nhiều sản phẩm nội
địa được ưa chuộng, chiếm nhiều
cảm tình như: kem đánh răng "Hynos", xà bông "Cô Ba", bột giặt "Viso"... Điều này cho thấy
người tiêu thụ miền Nam thời
đó có tinh thần yểm trợ hàng nội
hóa khá cao.
Một thế mạnh nữa
của VNCH là thế hệ trí thức,
kỹ sư, cán sự
được huấn luyện kỹ
lưỡng, làm việc tận tâm. Về
mặt này, VNCH hoàn toàn vượt xa các lân bang cùng thời như
Thailand, Malaysia, Indonesia, Singapore... Có thống kê cho thấy
3 trong số 4 kỹ sư trong
toàn vùng khi đó là công dân Nam Việt
nam. Năm 1961, kỹ sư miền Nam
tiếp tục đón nhận nhà máy thủy điện Đa Nhim từ
Nhật. Từ thời này, các chuyên gia Nam Việt Nam cũng đã manh nha dự án khu chế biến lọc
dầu Dung Quất ngày nay.
Nguồn
chuyên viên lành nghề, mẫn cán còn giúp thực thi các kế hoạch, khai triển
nhiều khu kỹ nghệ: Khu Kỹ
Nghệ Biên Hòa, Khu Kỹ Nghệ Phong Dinh... Ngay khi tin vui về mỏ dầu
hỏa ở Vũng Tàu loan ra, VNCH cũng
có đủ chuyên viên để thiết lập
ngay Tổng Cục Dầu Hỏa.
Trung tâm nguyên tử
năng Đà Lạt, hoạt động từ
thời Đệ Nhất Cộng
Hòa,
do kiến
trúc sư tài danh Ngô Viết Thụ vẽ
mẫu thiết kế.
Thứ tư, theo sách “Lịch sử Kinh tế
Việt Nam” 1945-2000, viết về giai đoạn
1955-1975, xuất bản tại Hà Nội
năm 2004 (tài liệu mới của nhà nước
cộng sản Việt Nam) cho biết:
“Năm 1973 nông dân thu hoạch gần 5 triệu tấn gạo, gần đủ cho nhu cầu quốc nội. Ước lượng sang 1976 có thặng dư để xuất cảng. Cũng có kế hoạch xuất cảng tôm lên đến 30 triệu Usd năm 1975. Về hạ tầng cơ sở, đến đầu 1970, Việt Nam Cộng Hòa có trên 1,200 cây số đường xe lửa, khoảng 20,000 điện thoại, 50 đài phát thanh và 4 đài truyền hình lớn (ở Sài Gòn, Huế, Quy Nhơn và Cần Thơ. Cuối thập niên 1950, VNCH xây xa lộ Biên Hòa ở phía Bắc Sài Gòn, là công trình giao thông công cộng có thể nói tân tiến nhất toàn vùng Đông Nam Á khi đó... Có thể kể thêm nhà máy giấy Cogido An Hảo (1961, Biên Hòa) có lúc sản xuất giấy đủ đến 40% nhu cầu nội địa. Hai xưởng dệt Vinatexco và Vimytex trình làng hơn 13 triệu mét vải hằng năm. Hai nhà máy xi măng, một ở Hà Tiên và một ở Thủ Đức cho ra lò hơn 540,000 tấn mỗi năm...”
“Năm 1973 nông dân thu hoạch gần 5 triệu tấn gạo, gần đủ cho nhu cầu quốc nội. Ước lượng sang 1976 có thặng dư để xuất cảng. Cũng có kế hoạch xuất cảng tôm lên đến 30 triệu Usd năm 1975. Về hạ tầng cơ sở, đến đầu 1970, Việt Nam Cộng Hòa có trên 1,200 cây số đường xe lửa, khoảng 20,000 điện thoại, 50 đài phát thanh và 4 đài truyền hình lớn (ở Sài Gòn, Huế, Quy Nhơn và Cần Thơ. Cuối thập niên 1950, VNCH xây xa lộ Biên Hòa ở phía Bắc Sài Gòn, là công trình giao thông công cộng có thể nói tân tiến nhất toàn vùng Đông Nam Á khi đó... Có thể kể thêm nhà máy giấy Cogido An Hảo (1961, Biên Hòa) có lúc sản xuất giấy đủ đến 40% nhu cầu nội địa. Hai xưởng dệt Vinatexco và Vimytex trình làng hơn 13 triệu mét vải hằng năm. Hai nhà máy xi măng, một ở Hà Tiên và một ở Thủ Đức cho ra lò hơn 540,000 tấn mỗi năm...”
Chính những
con số mà chính đảng cộng sản
công nhận cũng đã đủ nói lên thực tế không thể
chối bỏ đó là VNCH có một nền kinh tế
tự do và phát triển ổn định.
Ngoài những con số trên chúng ta còn thấy được gì? Đó là: Nhiều
người từng sống ở
miền Nam trước đây có lẽ vẫn còn nhớ
chiếc xe La Dalat, biểu tượng của
công nghệ xe hơi non trẻ.
Vào thời điểm này, sáng lập viên của hãng xe Hyundai mới chỉ là tiểu
thương tại
Hàn Quốc. Dù lắp ráp với nhiều
phụ tùng ngoại quốc, La Dalat vẫn
là chiếc xe hơi đầu
tiên mang nhãn "Made in Vietnam", mẫu
mã của riêng Việt Nam.
Xe hơi La DaLat trước khách sạn Continetal
Trước
1975, có 11 dàn máy tính IBM 360 hiện
đại đã được đưa về Bộ Tổng
Tham Mưu và Bộ Giáo Dục.
Lúc đó, toàn vùng Đông Nam Á chỉ
có Singapore sắm được vỏn vẹn...
1 chiếc máy tương tự.
Máy tính IBM thời
VNCH
Thứ
năm, Trung cộng trong nỗ lực phát triển
kinh tế và cạnh tranh với Mỹ và âm mưu triệt
tiêu nội lực của Việt
Nam đã phải thừa nhận. Hãy nghe tác giả
Hà Cẩn mà tôi nhiều lần giới
thiệu cuốn sách “Mao chủ tịch của
tôi” trong loạt bài “Những sự thật không thể chối bỏ”.
Tác giả thuộc Viện văn học
Trung quốc, cho in cuốn sách năm 1997 và tái bản năm 2000, tại trang 222 có đoạn: “Miền Nam Việt
Nam có nền kinh tế phát triển, đó là điều bất lợi
cho chúng ta...” Tác giả
Trung cộng này cũng công
nhận sự phát triển của miền
Nam về kinh tế và khẳng định
đó là bất lợi cho âm mưu Hán hóa mà ông Hồ
đang thực hiện theo lệnh Mao. Đây là một điểm khẳng
định cho sự thật về
nền kinh tế phát triển của VNCH và cũng thêm minh chứng cho âm mưu của
Trung cộng và ông Hồ Chí Minh.
Trong khi các con số
và tài liệu cho thấy VNCH là nước có nền kinh tế
phát triển trong đa số các lĩnh vực thì VNDCCH được cai trị bởi những
kẻ độc tài và bạo tàn thì sao?
Thứ nhất, đó là những con số người chết
khủng khiếp trong chiến dịch CCRĐ man rợ
do ông Hồ Chí Minh chỉ đạo mà tôi đã đề
cập trong bài Những sự thật
không thể chối bỏ - phần
5 - Nỗi đau Cải Cách. Bên cạnh đó là một nền kinh tế
nghèo nàn, lạc hậu mà nhân dân là những người hứng
chịu trực tiếp.
“Tổng
cộng chiến dịch Giảm
tô tịch thu của địa chủ,
phú nông 31.110 tấn thóc
tô, 15.475 ha ruộng,
8.246 trâu bò. Tổng cộng chiến dịch
Cải cách Ruộng đất tịch
thu của địa chủ 810.000 ha ruộng,
106.448 trâu bò, 1.846.000 nông cụ,
148.565 ngôi nhà. Số tài
sản này được phân chia cho 2.104.138 hộ bần nông, trung bình mỗi hộ
được 0,38 ha, 0,87 nông cụ, 0,071 ngôi nhà.”
Thu nhập
bình quân đầu người ở các hộ
xã viên hợp tác xã nông
nghiệp có sự bất bình thường
về cơ cấu.
Trong tổng thu nhập của họ
thì khoản thu nhập trong hợp tác xã nhỏ hơn thu
nhập ngoài hợp tác xã, trong khi 95% ruộng đất và toàn bộ
công cụ sản xuất (trâu, bò, cày, bừa…)
đều nhập vào tập thể.
Phần 5% ruộng đất chia về
các hộ chỉ nhằm tạo
thêm thu nhập phụ, mà thường là những
thửa ruộng đầu thừa
đuôi thẹo. Trong cuốn “Những điều
cần nhìn lại sau CCRĐ” - NXB Văn hóa của ĐCSVN có đoạn: “Năm 1961: Tổng thu nhập bình quân đầu người là 11,50 đồng/tháng,
trong đó thu nhập trong hợp tác xã là 4,5 đồng, còn thu nhập ngoài hợp tác xã là 7,0 đồng.”
Ngoài ra, theo tác giả
Bernard Fall, một gia
đình nông dân bốn người cần có ít nhất
1,5 mẫu tây để bảo đảm
đời sống, đó là chưa kể đến thuế nông nghiệp
phải đóng hằng năm. (Bernard Fall, sđd.
tt. 271, 282).
Thứ
hai, kể cả sau khi kết thúc CCRĐ thì nền kinh tế của VNDCCH không sáng sủa và kém xa so với
VNCH. Trong cuốn sách được nhà xuất bản Lịch
sử của Liên Bang Nga xuất bản năm 1995 có tên gọi
tạm dịch ra tiếng Việt “Liên Xô- Trung Quốc và Việt
Nam, vấn đề chưa được biết” của
tác giả người Nga, Ruslan Kobachenko, một đảng viên đảng
cộng sản Liên Xô và cũng là nhà giáo
kiêm nhà nghiên cứu lịch sử Châu Á từng
giảng dạy tại đại
học Minsk-Nga, có đoạn trong trang 197 như sau:
“So với Miền Nam thì người đồng chí Miền Bắc của chúng ta chịu thua kém nhiều về kinh tế. Chúng ta đã nhận ra điều này như là một yếu điểm cần phải được sửa chữa của lãnh đạo Miền Bắc mà đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhưng thật khó làm điều này vì kinh tế Miền Bắc rất lạc hậu và theo mô hình của Trung Hoa...”
Đoạn trích cho thấy tác giả người Nga chê nền Kinh tế VNDCCH không bằng VNCH do lạc hậu và theo mô hình Trung cộng. Vậy thì những gì tuyên truyền của đảng cộng sản về một nền kinh tế bị “kìm kẹp” chỉ là một sự bịa đặt nhằm ngậm máu phun người đối với VNCH.
“So với Miền Nam thì người đồng chí Miền Bắc của chúng ta chịu thua kém nhiều về kinh tế. Chúng ta đã nhận ra điều này như là một yếu điểm cần phải được sửa chữa của lãnh đạo Miền Bắc mà đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhưng thật khó làm điều này vì kinh tế Miền Bắc rất lạc hậu và theo mô hình của Trung Hoa...”
Đoạn trích cho thấy tác giả người Nga chê nền Kinh tế VNDCCH không bằng VNCH do lạc hậu và theo mô hình Trung cộng. Vậy thì những gì tuyên truyền của đảng cộng sản về một nền kinh tế bị “kìm kẹp” chỉ là một sự bịa đặt nhằm ngậm máu phun người đối với VNCH.
Đường
phố VNDCCH
Thứ
ba, theo sách “Lịch sử Kinh tế Việt
Nam” 1945-2000, viết về giai đoạn 1955-1975, xuất bản tại
Hà Nội năm 2004 thì:
“Cho đến 1973 nông dân miền Bắc sản xuất gần 4 triệu tấn gạo, chưa đủ chi dùng cho nhân dân và vẫn phải nhận viện trợ từ Trung Quốc, Liên Xô bột mì, bobo... Về hạ tầng cơ sở, đến đầu 1972, VNDCCH chỉ có trên 500 cây số đường xe lửa, điện thoại chỉ có trong cơ quan nhà nước, 2 đài phát thanh, chưa có máy điện toán...”
Chỉ cần bạn đọc điểm lại những con số trên và xem những con số cùng loại và cũng thời điểm đó đã nêu trên thì VNCH rõ ràng có nền kinh tế, hạ tầng phát triển hơn hẳn VNDCCH.
“Cho đến 1973 nông dân miền Bắc sản xuất gần 4 triệu tấn gạo, chưa đủ chi dùng cho nhân dân và vẫn phải nhận viện trợ từ Trung Quốc, Liên Xô bột mì, bobo... Về hạ tầng cơ sở, đến đầu 1972, VNDCCH chỉ có trên 500 cây số đường xe lửa, điện thoại chỉ có trong cơ quan nhà nước, 2 đài phát thanh, chưa có máy điện toán...”
Chỉ cần bạn đọc điểm lại những con số trên và xem những con số cùng loại và cũng thời điểm đó đã nêu trên thì VNCH rõ ràng có nền kinh tế, hạ tầng phát triển hơn hẳn VNDCCH.
Kết luận: Một nền
kinh tế VNCH phát triển bền vững
và có chiều sâu, chiều rộng cho thấy
VNCH đã nỗ lực phát triển để đem lại
đời sống tốt đẹp
cho nhân dân. Như vậy
đây là kết luận đầu tiên cho thấy
chính sách ngậm máu phun
người của đảng cộng
sản về một miền
Nam khốn khó, chịu kìm kẹp là điều
không tưởng.
2. Việt
Nam Cộng Hòa – Một đất nước
tự do, dân chủ thật sự:
Như ở
mục 1 tôi đã chứng minh so với VNDCCH thì VNCH hơn hẳn về mặt kinh tế,
đời sống nhân dân. Vậy còn các mặt khác về đời sống,
văn hóa, giáo dục và
chính trị thì ra sao? Tôi
xin trình bày ở mục 2 này.
Thứ nhất, để nói về
tự do dân chủ chúng ta có thể thấy rõ nét nhất
là văn hóa và biểu tình,
tự do lập đoàn thể, hội họp
và thậm chí cả chống chính phủ
khác hẳn so với VNDCCH và CHXHCNVN hiện nay là độc tài toàn trị.
Minh chứng
rõ nét cho việc này đó là
xuất hiện những thành phần
cộng sản nằm vùng trong lòng VNCH như ông
Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Hiếu Đằng… Chính quyền
VNCH biết rõ họ là cộng sản
và biết những hành động của họ
làm chống chính quyền. Nhưng họ vẫn được
biểu tình, kích động dân chúng theo cộng sản. Điều
này trái ngược hẳn với quyền
tự do bị chà đạp của
nhân dân yêu nước khi
tham gia biểu tình chống Trung cộng xâm lược…
Biểu
tình tại VNCH
Biểu
tình tại CHXHCNVN
Ngoài ra, chúng ta có thể
thấy tại VNCH, các bài hát phản chiến của
Trịnh Công Sơn vẫn được phép tồn tại. Hay thậm
chí các bài hát có nội
dung lãng mạn bị đảng cộng
sản triệt để cấm
đoán vì lo ngại sẽ hỏng mất
chính sách tuyên truyền hận thù của cộng
sản thì tại VNCH vẫn được tự
do ca hát. Đó chính là do chính quyền
VNCH tôn trọng quyền tự do tư tưởng
và thưởng thức âm nhạc của
nhân dân. Xin lấy một ví dụ. Bài hát “Những
đồi hoa sim” thực chất là bắt
nguồn từ một nhà thơ Miền
Bắc và trước khi về quê ở ẩn
do không chấp nhận sự thối
nát của cộng sản cũng là người
theo đảng cộng sản, ông là Hữu
Loan nhưng vẫn
được các nhạc sỹ của
VNCH phổ biến và tự do ca hát. Ngược
lại VNDCCH thì tuyên truyền “Không nghe, không dùng văn
hóa của Ngụy” Mặc dù những
bài hát, bài thơ đó hoàn toàn không có mưu đồ
chính trị và giàu tính
nhân văn.
Nạn
nhân của những nghệ sỹ
trong chế độ độc tài nhiều
vô kể như nhạc sỹ Tô Hải hay nạn
nhân của cái gọi là “Phản cách mạng” Nhân văn Giai Phẩm. Trong khi đó VNCH không có
một cuộc thanh trừ nào kiểu như vậy,
và quan trọng hơn cả VNCH
không hề có một cuộc cách mạng
thực chất là CẮT MẠNG
người như “Cải cách ruộng đất - long trời lở đất”.
Thứ
hai, trong cuốn sách
nghiên cứu khá sâu sắc về quốc
tế cộng sản “Chủ
thuyết của chúng ta” của học giả
A.Schenalder - một đảng viên đảng cộng sản
CHDC Đức - được ấn hành tại
Đông Đức năm 1981 có viết tại trang 189: “Nếu
cứ tự do như VNCH
thì VNDCCH sẽ bị đánh mất chủ
thuyết của mình...” Tác giả này đã công nhận VNCH có tự do về tư tưởng
và VNDCCH thì ngược lại rất độc
tài và quân phiệt chỉ nhằm giữ
cho được “Chủ thuyết “ cộng
sản sai lầm cho mình nhằm cai trị nhân dân ta, đấy nhân dân ta đến cuộc chiến
huynh đệ tương tàn (Xin xem thêm “Những sự thật không thể chối bỏ - phần 13 - Nướng dân đen
trên ngọn lửa hung tàn!”).
Chỉ cần thấy câu: Tổ
quốc - Danh dự - Trách nhiệm (1954-1967) (Fatherland -
Honour - Duty) và Tổ quốc - Công minh - Liêm chính
(1967-1975) (Fatherland - Justice - Integrity) của
VNCH đặt Tổ quốc lên trên hết
cũng đã thấy khác hẳn với “Trung với
đảng, hiếu với dân” của
CHXHCNVN vì đảng cộng sản đặt
lợi ích của mình trên cả nhân dân và chẳng thấy bóng dáng Tổ
Quốc đâu cả.
Thứ
ba, Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa mang triết
lý giáo dục nhân bản, dân tộc, và khai phóng. Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa nhấn
mạnh quyền tự do giáo dục,
và cho rằng “những người có khả
năng mà không có phương tiện
sẽ được nâng đỡ để theo đuổi
học vấn”. Hệ thống
giáo dục Việt Nam Cộng Hòa gồm
tiểu học, trung học và đại học,
cùng với một mạng lưới
các cơ sở
giáo dục công lập, dân lập, và tư thục ở cả
ba bậc học và hệ thống
tổ chức quản trị
từ trung ương cho tới
địa phương.
Điều
này đã được minh chứng bằng việc
học sinh đi học dưới chế
độ VNCH không hề mất học
phí. Năm học 1973-1974,
Việt Nam Cộng hòa có một phần năm (20%) dân số
là học sinh và sinh viên
đang đi học trong các cơ sở giáo
dục. Con số này bao gồm 3.101.560 học sinh tiểu học, 1.091.779 học
sinh trung học và 101.454
sinh viên đại học; số người
biết đọc biết viết
ước tính khoảng 70% dân số. Đến năm 1975, tổng
số sinh viên trong các viện đại học
ở miền Nam là khoảng 150.000 người (không tính các sinh viên
theo học ở Học viện
Quốc gia Hành chính và ở các trường đại
học cộng đồng). Những
con số nêu trên được lấy từ
cuốn “Giáo dục Việt Nam” – NXB Giáo dục
năm 2001 – cuốn sách của đảng cộng
sản Việt Nam.
Năm 1958, dưới
thời Bộ trưởng Bộ
Quốc gia Giáo dục Trần Hữu
Thế, Việt Nam Cộng Hòa nhóm họp
Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần
I) tại Sài Gòn. Đại hội này quy tụ
nhiều phụ huynh học sinh, thân hào nhân sĩ, học giả, đại
diện của quân đội, chính quyền và các tổ chức quần
chúng, đại diện ngành văn hóa và giáo dục các cấp từ
tiểu học đến đại
học, từ phổ thông đến
kỹ thuật... Ba nguyên tắc “nhân bản” (humanistic), “dân tộc” (nationalistic), và “khai
phóng” được chính thức hóa ở hội
nghị này. Đây là những nguyên tắc làm nền tảng
cho triết lý giáo dục của Việt
Nam Cộng Hòa, được ghi cụ thể trong tài liệu
Những nguyên tắc căn bản do Bộ
Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1959 và sau đó trong Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa (1967). Theo văn bản phụ
lục của hiến pháp VNCH ghi rõ:
“Giáo dục
Việt Nam là giáo dục nhân bản. Triết lý nhân bản
chủ trương con người
có địa vị quan trọng trong thế gian này, lấy con người làm gốc, lấy cuộc
sống của con người trong cuộc đời này làm căn bản,
xem con người như một cứu cánh chứ không phải như một phương tiện hay công cụ phục vụ
cho mục tiêu của bất cứ
cá nhân, đảng phái, hay tổ chức nào khác. Triết
lý nhân bản chấp nhận có sự
khác biệt giữa các cá nhân, nhưng không chấp
nhận việc sử dụng
sự khác biệt đó để đánh giá con người,
và không chấp nhận sự kỳ thị
hay phân biệt giàu nghèo,
địa phương, tôn giáo, chủng
tộc... Với triết lý nhân bản,
mọi người có giá trị như nhau
và đều có quyền được hưởng
những cơ hội đồng đều về
giáo dục.
Giáo dục
Việt Nam là giáo dục dân tộc. Giáo dục
tôn trọng giá trị truyền thống
của dân tộc trong mọi sinh hoạt liên hệ tới gia đình, nghề
nghiệp, và quốc gia. Giáo dục phải bảo
tồn và phát huy được những tinh hoa hay những
truyền thống tốt đẹp
của văn hóa dân tộc. Dân tộc tính trong văn hóa cần phải được
các thế hệ biết đến,
bảo tồn và phát huy, để không bị mất đi hay tan biến
trong những nền văn hóa khác.
Giáo dục
Việt Nam là giáo dục khai phóng. Tinh thần dân tộc không nhất
thiết phải bảo thủ,
không nhất thiết phải đóng cửa.
Ngược lại, giáo dục phải mở
rộng, tiếp nhận những
kiến thức khoa học kỹ thuật
tân tiến trên thế giới, tiếp
nhận tinh thần dân chủ, phát triển xã hội, giá trị
văn hóa nhân loại để góp phần vào việc
hiện đại hóa quốc gia và xã hội, làm cho xã hội tiến bộ
tiếp cận với văn minh thế
giới.”
Trong khi đó thì ở
VNDCCH, học sinh bị nhồi nhét tư tưởng
Mỹ “xâm lược” mà thực chất không phải
vậy, “bác Hồ yêu nước, cả
đời vì nước vì non” mà thực tế ngược
lại khi bạn đọc 15 bài “Những sự thật không thể chối bỏ”và
hàng trăm ngàn tư liệu,
bằng chứng sống lại
chứng minh được điều ngược
lại. Hay là “yêu nước là phải yêu đảng cộng
sản “ – một định nghĩa dốt
nát và ấu trĩ.
Những
bài thơ như của
ông Tố Hữu với những
câu như “Giết,
giết nữa...” lại được
nhà trường VNDCCH gieo
vào đầu con trẻ ý tưởng giết
người ngược hẳn với
xu thế nhân bản của thế
giới nói chung và VNCH
nói riêng.
Trên Website của
Sở Giáo dục Đào tạo tỉnh
Hà Nam có bài viết (http://phuly.edu.vn/bacho/chuyen83.htm)
nói về việc ông Hồ gửi
thư cho học sinh nhân ngày 1-6. Trên báo Sự Thật, số
134 ra ngày 1-6-1950, đăng bức
thư gửi
thiếu nhi toàn quốc nhân ngày 1-6. Ông Hồ có viết: “Song ở
các nước tư bản, cha
mẹ là người lao động bị bóc lột,
thì trẻ con cũng bị bóc lột, phải
chịu cực khổ”. Điều
này cho thấy đảng cộng sản
và ông Hồ chủ trương
tuyền truyền bịa đặt
ngậm máu phun người về cuộc
sống của trẻ em ở
những nước dân chủ trong đó có Mỹ và VNCH là bị “bóc lột”. Nhìn lại
những người lính trẻ bị bắt
buộc phải cầm súng khi chưa
đủ tuổi thành niên thời trước hay nhìn cảnh
tượng của trẻ em đang làm nô lệ
tình dục, nô lệ lao động... ở
Việt Nam hiện nay mới thấy
được tuyên truyền của cộng
sản chỉ là bịa đặt
nhằm đưa đến một ý thức lệch
lạc cho nhân dân.
Thứ tư, từ ngày
7 đến ngày 28 tháng 6 năm
1975 (tức là sáu tuần sau sự kiện
ngày 30 tháng 4), Arthur W. Galston, giáo sư sinh học ở
Viện Đại học Yale, viếng
thăm miền Bắc Việt nam (lúc đó vẫn
là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa). Theo tường
trình của Galston cho tạp chí Science số ra ngày 29 tháng 8 năm 1975
thì một trong những chủ đề
khiến các nhà lãnh đạo miền Bắc
bận tâm vào lúc đó là vấn đề thống
nhất với miền Nam. Theo tạp
chí Science thì:
“Việc thống nhất trong lĩnh vực khoa học và giáo dục có lẽ sẽ có nhiều khó khăn vì hai miền đã phát triển theo hai chiều hướng khác nhau trong nhiều thập niên. Nhưng dù cho có nhiều khó khăn, Galston nhận thấy các nhà lãnh đạo miền Bắc công khai bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với nhiều đặc điểm của nền khoa học và giáo dục ở miền Nam; họ dự định kết hợp những đặc điểm này vào miền Bắc khi quá trình thống nhất đang được thảo luận sôi nổi vào lúc đó thực sự diễn ra.”
Theo Galston, các nhà lãnh đạo miền Bắc, cụ thể được nhắc đến trong bài là Nguyễn Văn Hiệu (Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam) và Phạm Văn Đồng (Thủ tướng Việt nam Dân chủ Cộng hòa), đặc biệt quan tâm đến hệ thống giáo dục nhấn mạnh đến các ngành kỹ thuật và điện tử cùng hệ thống các trường đại học cộng đồng hệ hai năm đã được thiết lập ở miền Nam (nguyên văn tiếng Anh: "the widespread educational emphasis on engineering and electronics and the system of two-year, community colleges").
“Việc thống nhất trong lĩnh vực khoa học và giáo dục có lẽ sẽ có nhiều khó khăn vì hai miền đã phát triển theo hai chiều hướng khác nhau trong nhiều thập niên. Nhưng dù cho có nhiều khó khăn, Galston nhận thấy các nhà lãnh đạo miền Bắc công khai bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với nhiều đặc điểm của nền khoa học và giáo dục ở miền Nam; họ dự định kết hợp những đặc điểm này vào miền Bắc khi quá trình thống nhất đang được thảo luận sôi nổi vào lúc đó thực sự diễn ra.”
Theo Galston, các nhà lãnh đạo miền Bắc, cụ thể được nhắc đến trong bài là Nguyễn Văn Hiệu (Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam) và Phạm Văn Đồng (Thủ tướng Việt nam Dân chủ Cộng hòa), đặc biệt quan tâm đến hệ thống giáo dục nhấn mạnh đến các ngành kỹ thuật và điện tử cùng hệ thống các trường đại học cộng đồng hệ hai năm đã được thiết lập ở miền Nam (nguyên văn tiếng Anh: "the widespread educational emphasis on engineering and electronics and the system of two-year, community colleges").
Như vậy
cho thấy ngay cả đảng cộng
sản cũng phải thừa nhận
nền giáo dục của VNCH chính là cái gương
cho họ tự soi vào. Nhưng thực
chất họ nói như vậy nhưng lại không làm như vậy chủ yếu chỉ
để ngu dân, cai trị độc tài.
Lời chứng và đánh giá của ông Mai Thái Lĩnh, cựu sinh viên Viện Đại học
Đà Lạt, nguyên Phó Chủ tịch Hội
đồng Nhân dân Thành phố Đà Lạt dưới
chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam:
“Tôi là con của một cán bộ Việt Minh – tham gia Cách mạng tháng Tám tại Lâm Đồng sau đó tập kết ra miền Bắc. Chế độ Việt Nam Cộng hòa lúc đó biết lý lịch của tôi, nhưng vẫn không phân biệt đối xử, cho nên tôi vẫn có thể học hành đến nơi đến chốn. Tính chất tốt đẹp của nền giáo dục cũ của miền Nam là điều tôi công khai thừa nhận, vì vậy suốt 14 năm phục vụ trong ngành giáo dục "xã hội chủ nghĩa" (1975-1989), tôi bị người ta gán cho đủ thứ nhãn hiệu, chụp cho nhiều thứ mũ chỉ vì tôi nêu rõ những ưu điểm của nền giáo dục cũ cần phải học hỏi. Chính là do thừa hưởng nền giáo dục đó của miền Nam mà tôi có được tính độc lập trong tư duy, không bao giờ chịu nô lệ về tư tưởng...”
“Tôi là con của một cán bộ Việt Minh – tham gia Cách mạng tháng Tám tại Lâm Đồng sau đó tập kết ra miền Bắc. Chế độ Việt Nam Cộng hòa lúc đó biết lý lịch của tôi, nhưng vẫn không phân biệt đối xử, cho nên tôi vẫn có thể học hành đến nơi đến chốn. Tính chất tốt đẹp của nền giáo dục cũ của miền Nam là điều tôi công khai thừa nhận, vì vậy suốt 14 năm phục vụ trong ngành giáo dục "xã hội chủ nghĩa" (1975-1989), tôi bị người ta gán cho đủ thứ nhãn hiệu, chụp cho nhiều thứ mũ chỉ vì tôi nêu rõ những ưu điểm của nền giáo dục cũ cần phải học hỏi. Chính là do thừa hưởng nền giáo dục đó của miền Nam mà tôi có được tính độc lập trong tư duy, không bao giờ chịu nô lệ về tư tưởng...”
Đánh giá của
nhà phê bình văn học Thụy Khuê:
“Có thể nói, trong suốt thời gian chia đôi đất nước, mặc dù với những tệ nạn của xã hội chiến tranh, tham nhũng; miền Nam vẫn có một hệ thống giáo dục đứng đắn. Trong chương trình giáo khoa, các giai đoạn lịch sử và văn học đều được giảng dạy đầy đủ, không thiên hướng. Ở bậc trung học học sinh gặt hái những kiến thức đại cương về sử, về văn, và tới trình độ tú tài, thu thập những khái niệm đầu tiên về triết học. Lên đại học, sinh viên văn khoa có dịp học hỏi và đào sâu thêm về những trào lưu tư tưởng Đông Tây, đồng thời đọc và hiểu được văn học nước ngoài qua một nền dịch thuật đáng tin cậy, dịch được những sách cơ bản.”
“Có thể nói, trong suốt thời gian chia đôi đất nước, mặc dù với những tệ nạn của xã hội chiến tranh, tham nhũng; miền Nam vẫn có một hệ thống giáo dục đứng đắn. Trong chương trình giáo khoa, các giai đoạn lịch sử và văn học đều được giảng dạy đầy đủ, không thiên hướng. Ở bậc trung học học sinh gặt hái những kiến thức đại cương về sử, về văn, và tới trình độ tú tài, thu thập những khái niệm đầu tiên về triết học. Lên đại học, sinh viên văn khoa có dịp học hỏi và đào sâu thêm về những trào lưu tư tưởng Đông Tây, đồng thời đọc và hiểu được văn học nước ngoài qua một nền dịch thuật đáng tin cậy, dịch được những sách cơ bản.”
Thứ tư, ngay từ thời điểm
1960-70 thì cấu trúc của chính phủ VNCH đã đầy đủ chuẩn
mực, khuôn mẫu, của một
đất nước văn minh ngày hôm nay - Tổng Thống và Lưỡng
viện Quốc Hội (Thượng
và Hạ Viện). Tự do báo chí thật
sự với hơn 50 tờ báo tư nhân
các loại tại Sài Gòn so với không có tờ báo tư nhân
nào dưới chế độ CSVN ngày nay, sau gần 70 năm trời
chứ chưa nói đến
VNDCCH cùng thời điểm với VNCH. Vậy
thì tự do dân chủ ở đâu?
Quốc hội
VNCH họp
Nghị gật CHXHCNVN
Dưới
thời Tổng thống Ngô Đình Diệm,
chính quyền đi theo chủ nghĩa Cần lao Nhân vị. Trong khoảng 5 năm, Việt Nam Cộng Hòa đã có một
số thành tựu: xã hội ổn
định, kinh tế phát triển, định cư gần
1 triệu dân di cư từ miền Bắc, thành lập
Viện Đại học Huế...
Hiến
pháp 1967 xác lập cơ cấu tổ chức chính quyền
Việt Nam Cộng Hòa rất hoàn chỉnh, theo mô hình của nhà nước Hoa Kỳ. Hiến
pháp Việt Nam Cộng Hòa đã thể hiện khá đầy
đủ tinh thần của chủ
nghĩa hợp hiến. Quốc hội
có những quyền hạn sau: Biểu
quyết các đạo luật; Phê chuẩn
các hiệp ước và hiệp định quốc
tế; Quyết định việc
tuyên chiến và nghị hòa, quyết định tuyên bố
tình trạng chiến tranh; Kiểm soát chính phủ trong việc thi hành chính sách quốc gia; Hợp thức hóa sự
đắc cử của dân biểu
hoặc nghị sĩ quốc hội;
Quyền khuyến cáo thay thế từng phần
hay toàn thể. Chính phủ với đa số
2/3 tổng số dân biểu và nghị
sĩ. Nếu Tổng thống không có lý do đặc
biệt để khước từ,
sự khuyến cáo sẽ có hiệu
lực. Trong trường hợp Tổng
thống khước từ, Quốc
hội có quyền chung quyết sự khuyến
cáo với đa số 3/4 tổng số
dân biểu và nghị sĩ.
Tính đến
năm 1975 thì Việt Nam Cộng Hòa đã thiết lập ngoại
giao với 87 quốc gia trên thế giới và 6 quốc
gia ở cấp bán chính thức.
(Bạn đọc có thể tham khảo
ở links sau:
http://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a)
http://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a)
Chúng ta có thể
thấy gì khi VNCH có hàng
chục đảng phái, tổ chức hoạt
động chính trị còn ngược lại
VNDCCH và CHXHCNVN hiện
nay chỉ có 1 đảng độc tài duy nhất
hoạt động với tiêu chỉ
“Bỏ điều 4 hiến pháp là tự
sát”. Ngoài ra ta phải thấy rõ ràng sự tự do trong bầu
cử của VNCH khác hẳn với bầu
cử theo sự sắp đặt
của VNDCCH hay CHXHCNVN.
Đó chính là sự tự do và dân chủ thật sự
khác với tuyên truyền giả hiệu,
ngậm máu phun người.
Thứ
năm, một tác giả của Trung cộng
khác là Vương Văn khi viết cuốn sách “Tư bản
hay dân chủ“”xuất bản tại
Trung cộng năm 2002 cũng
nói về VNCH như sau tại
trang 92:
“Dân chủ trong chủ nghĩa tư bản cho nhân dân hưởng nhiều cái lợi nhưng lại là sự bất lợi cho chính quyền vì chính quyền không thể kiểm soát nổi nhân dân tự do. Hãy nhìn Việt Nam Cộng hòa ở Miền Nam Việt Nam làm tấm gương...”
“Dân chủ trong chủ nghĩa tư bản cho nhân dân hưởng nhiều cái lợi nhưng lại là sự bất lợi cho chính quyền vì chính quyền không thể kiểm soát nổi nhân dân tự do. Hãy nhìn Việt Nam Cộng hòa ở Miền Nam Việt Nam làm tấm gương...”
Tác giả
Trung cộng này cho rằng VNCH chính là một chính quyền tự do, dân chủ
nên đã bị thất bại. Điều
này không sai nhưng chưa đủ.
Vì sao? Vì thực chất cái đúng là tác giả công nhận sự tự
do dân chủ thật sự của
VNCH. Tuy nhiên tác giả
nên nhớ một điều rằng
chính đảng cộng sản Việt
Nam đã lợi dụng sự tự
do và dân chủ này để gây chia rẽ, dẫn đến
sự sụp đổ của
một nền dân chủ non trẻ nhưng đã làm được những
điều tốt đẹp lớn
lao cho nhân dân miền Nam.
Thứ
sáu, một khi để nói là VNCH là tay sai của Mỹ, là bán nước,
là Ngụy quân, ngụy quyền thì phải
có bằng chứng rõ ràng. Nhưng như phần
A tôi đã chứng minh Mỹ không hề xâm lược Việt
nam, không lấy đất, biển đảo,
tài nguyên của Việt Nam, cũng không sưu cao thuế
nặng như Thực dân
Pháp trước 1945 thì VNCH
đâu có bán nước, đâu có
là “tay sai” như đảng
cộng sản tuyên truyền?.
Quan trọng
hơn, tại
sao một chế độ bị
vu cáo là “ngụy” lại anh dũng chống trả quân thù Trung cộng
cướp nước còn CHXHCNVN lại “tri ân” giặc Tầu? Để
mặc ngư dân bị
đánh đập ngay trên biển đảo quê hương mình? Ai là Ngụy thì thực chất bạn
đọc cũng tự tìm cho mình câu trả lời rồi.
9
và Hoàng Sa
CHXHCNVN và Hoàng Sa
Thứ bảy, Tự do tôn giáo cũng là vấn đề
được đề cập tại
VNCH. Chúng ta có thể thấy các cuộc biểu tình rầm
rộ của giới tăng ni, cái chết
của vị sư theo
cộng sản Thích Quảng Đức... cho thấy
chính quyền VNCH không hề đối xử
phân biệt với các tôn giáo, không có hiện tượng đập
phá nhà thờ như ở Thái
Hà... hiện nay.
Để khẳng định điều
này, xin trích lời của tác giả người Đông Đức
đã giới thiệu ở trên “Chủ
thuyết của chúng ta” của học giả
A.Schenalder - một đảng viên đảng cộng sản
CHDC Đức - được ấn hành tại
Đông Đức năm 1981 có viết tại trang 193:“Tự
do tôn giáo ở Miền Nam là sự tổng hòa cân bằng
giữa các tôn giáo nhưng lại là
điểm tựa cho đảng cộng
sản ở Việt Nam lợi
dụng để chiến thắng
chính quyền ông Diệm, ông Thiệu...”
Thứ
tám, một nét tiêu biểu đó là lĩnh vực y tế của
VNCH tại thời điểm trước
năm 1975 đã hơn hẳn
CHXHCNVN hiện nay chứ đừng nói đến
VNDCCH trước kia sau mấy chục năm “thống
nhất, giải phóng “ ảo tưởng. Cụ
thể VNCH vào thời điểm đó xây dựng
được nhiều bệnh viện
hiện đại của Đông Nam Á và không có cảnh 2-3 người
nằm 1 giường như thiên
đường XHCN. Mời bạn đọc
tham khảo links sau nói về y tế VNCH
(http://vi.wikipedia.org/wiki/Y_t%E1%BA%BF_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a):
(http://vi.wikipedia.org/wiki/Y_t%E1%BA%BF_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a):
“Dịch
vụ y tế bắt đầu
ở cấp xã. Mỗi xã có một
ủy viên y tế và một nữ
hộ sinh, thường gọi là "cô đỡ"
trông coi và giúp đỡ sản phụ ở
thôn quê. Ủy viên y tế làm việc dưới
sự giám sát của Hội đồng
xã.
Ở cấp quận thì có Chi y tế
dưới sự điều hành của
cán sự y tế. Mỗi tỉnh
thì có một bệnh việnthuộc
Ty y tế. Trưởng ty y tế là một bác sĩ phụ
trách chương trình y tế trong tỉnh.
Giám đốc bệnh viện cũng là một
bác sĩ y khoa. Bệnh nhân
nhập viện vào các bệnh viện công cộng
không phải trả tiền. Những
bệnh viện công cộng lớn gồm
có Bệnh viện Chợ Rẫy,
Vì Dân, Bệnh viện Nhi Đồng Sài Gòn, và Từ
Dũ.
Tổng số bệnh viện
dân sự toàn quốc vào năm 1965 là 101 cơ sở với 25.000 giường. Riêng thủ đô Sài Gòn có 11 bệnh viện công cộng
cung cấp gần 5.000 giường. Tính vào năm 1970 thì
trên toàn quốc có hơn 570.000 ca nhập
viện.
Một số chuyên khoa có bệnh viện riêng như Bệnh
viện Nhi đồng Sài Gòn (220 giường). Khoa tâm thần có ba cơ sở
chính: Bệnh viện Chợ Quán ở
Sài Gòn, Bệnh viện Huế, và Bệnh
viện Nguyễn Văn Hoài ở Biên Hòa.
Nằm
ngoài hệ thống của chính phủ
là các phòng mạch, dưỡng đường và bệnh
viện tư nhân (bốn
bệnh viện ở Sài Gòn với
hơn 800 giường).
Vào giữa thập niên 1960 Việt Nam Cộng hòa có khoảng
800 bác sĩ y khoa. Bệnh
viện tư lớn phải kể Bệnh
viện Grall và Bệnh viện Saint Paul ở
Sài Gòn, Bệnh viện Sùng Chính (200 giường) ở Chợ
Lớn ”
Còn “thiên đường”
bánh vẽ của chúng ta thì sao? Hãy đọc một bài viết
từ trang Baomoi.com trích
bài trên báo Tuoitre Online của
đảng cộng sản Việt
Nam (http://www.baomoi.com/Thieu-benh-vien-tai-sao-khong-xay-them/82/7484744.epi)
“Chuyện
3, 4 bệnh nhân nằm chung một giường đã có từ
lâu lắm rồi, nhưng thật đáng tiếc khi gần đây bộ
trưởng Bộ Y tế mới
biết và thấy nỗi khổ
nhục của người bệnh.
Người dân luôn đặt ra câu hỏi rằng tại
sao khi xây các dự án nhà
ở, các khách sạn, sân golf... mọc lên nhanh thế nhưng các
bệnh viện xây mới lại
không có hoặc rất ít (với tiến
độ con rùa). Vậy mong các vị đứng đầu
hãy quan tâm và trả lời cho cử tri biết...
Rất nhiều bệnh viện
quá tải, nhất là Bệnh viện
Nhi Đồng, Bệnh viện Ung bướu,
Bệnh viện Từ Dũ... người
ta dễ "phát sợ hơn
cả là bệnh" khi nhìn thấy cảnh đông đúc. Quá tải...
chắc khoảng... 300% chứ không phải là vừa.”
Bệnh
viện Nhi Đồng 1, TP.HCM thường xuyên bị quá tải
Kết luận: VNCH là một nền dân chủ
non trẻ nhưng thật sư là dân chủ
trong cả tư tưởng,
chính trị và tôn giáo,
giáo dục... Nó khác xa với tuyên truyền giả tạo
của VNDCCH và CHXHCNVN.
Nhưng VNCH đã bị đảng
cộng sản lừa bịp
nhân dân, ngậm máu phun
người để tuyên truyền họ là chế
độ “Ngụy quân, Ngụy quyền”.
Kết luận chung:
Qua các dẫn
chứng tôi đã chứng minh hai điều: Mỹ không xâm lược
Việt Nam và VNCH rất tự do và dân chủ.
Vậy thì luận điệu quy kết
cho Mỹ xâm lược Việt Nam là bịa
đặt. Và chính vì không có
kẻ xâm lược thì làm gì có kẻ làm tay sai bán nước như cách
VNDCCH và đảng cộng sản ngậm
máu phun người cho VNCH -
một chế độ dân chủ
non trẻ thật sự.
Dẫu rằng quá khứ đã qua, VNCH trên thực tế đã không còn tồn
tại. Nhưng trong lòng những
người dân đã từng sống tại
miền Nam trước năm 75 và người thân của họ dù sống
ở Hải Ngoại hay Việt
Nam đều thương tiếc
cho VNCH vì họ hiểu rõ sự thật
về một xã hội tốt
đẹp đang hình thành dần theo năm tháng đã bị chính sách “ngậm máu phun người “ của đảng
cộng sản Việt nam bức
tử. Và trong bản thân chúng tôi, những người sinh ra và lớn
lên giữa xã hội toàn trị của đảng
cộng sản nhưng
cũng đã kịp nhận ra sự thật
không phải như đảng cộng sản vẫn
tuyên truyền.
Có thể
khẳng định một câu ngắn
gọn: VNCH không phải là “Ngụy” mà chính VNDCCH và CHXHCNVN
hiện nay chính là Ngụy khi làm tay sai cho Trung cộng, Liên Xô và bức hại dân tộc
Việt Nam gần 1 thế kỷ.
Nhiệm vụ của chúng ta phải
tìm hiểu và trả lại sự
thật lịch sử để
cho thế hệ sau phải biết
và nhân dân hiểu được bản chất
xấu xa chuyên “ngậm máu phun người” của đảng
cộng sản Việt nam.
Như một
lời tri ân từ đáy lòng với những công dân yêu nước
VNCH của một công dân trẻ sống trong chế
độ độc tài cộng sản!
16/10/2012
No comments:
Post a Comment