Nghị Quyết Vịnh Bắc Việt 1964
Trọng Đạt
Diễn tiến
Trước hết tôi xin
nói về diễn tiến của sự kiện lịch sử này theo lời cựu Bộ trưởng quốc phòng
McNamara và nhận định của ông (1). Nước Mỹ tiến gần tới tuyên chiến tại Việt
Nam đó là vụ Nghị quyết vịnh Bắc Việt tháng 8-1964. Những biến chuyển quanh Nghị
quyết này cho tới nay vẫn còn nhiều tranh cãi mâu thuẫn.
Trước tháng 8-1964
chỉ có một số ít người Mỹ không quan tâm đến diễn tiến ở VN, chiến tranh có vẻ
còn xa nhưng biến cố Vịnh Bắc Việt đã thay đổi cái nhìn đó. Về đoản kỳ khi tầu
chiến Mỹ bị tấn công trong vịnh và nghị quyết của Quốc hội sau đó đã đưa tới khả
năng Mỹ can thiệp vào cuộc chiến chưa từng có trước đây. Theo McNamara điều
quan trọng hơn là chính phủ Johnson đã xin Quốc hội ra Nghị quyết này để hợp thức
hóa về mặt hiến pháp mọi hoạt động quân sự của Hành pháp Mỹ tại VN từ 1965.
Quốc hội nhìn nhận
quyền hạn lớn của Nghị quyết dành cho TT nhưng nó không có nghĩa như một tuyên
chiến và cũng không có nghĩa đó là sự cho phép mở rộng lực lực lượng Mỹ tại VN
từ 16,000 cố vấn lên 550,000 quân tác chiến. Bảo đảm sự tuyên chiến và cho phép
quân tác chiến những năm sau đó chắc là không được.
Nhiều người coi
chín ngày từ 30-7 tới 7-8-1964 như một giai đoạn nhiều tranh cãi nhất của cuộc
chiến 25 năm. Qua nhiều thập niên, đã có nhiều tranh luận về những sự kiện tại
vịnh, Hành pháp tường trình cho Quốc hội và người dân thế nào, xin Quốc hội quyền
hành động và hai ông Tổng thống đã xử dụng quyền này qua các năm ra sao
McNamara nêu nên
một số câu hỏi và tự ông trả lời như sau.
Tầu tuần duyên của
Bác Việt tấn công khu trục hạm Mỹ ngày 2-8 và 4-8-1964, có thật không?
Trả lời: ngày 2-4
thì chắc chắn không chối cãi được. Ngày 9-11-1995 tại Hà Nội, McNamara có gặp gỡ
và nói chuyện với Võ nguyên Giáp, ông ta nói ngày 4-8 không có cuộc tấn công của
tầu BV như người Mỹ tưởng.
Hồi đó và sau này
một số vị dân cử Quốc hội và người dân Mỹ cho rằng chính phủ Johnson khiêu
khích địch để có cớ leo thang chiến tranh và dùng mưu mẹo để được Quốc hội chấp
thuận cho leo thang.
Trả lời: hoàn toàn
không có chuyện này.
Tổng thống trả
đũa, cho máy bay ném bom bốn căn cứ tầu tuần duyên và một kho nhiên liệu, như
thế có đúng không?
Trả lời: có thể.
Những biến cố tại
vịnh BV có liên hệ tới hai chiến dịch riêng rẽ của Mỹ trước đây: Kế hoạch 34A
và DESOTO.
Từ tháng 1-1964 Hội
đồng an ninh quốc gia đã chấp nhận cho CIA yểm trợ miền nam VN những hoạt động
bí mật chống phá BV, mật danh 34A gồm hai hoạt động trước hết thả biệt kích ra
Bắc, thứ hai dùng tầu tuần duyên nhỏ, tốc độ cao do người Việt hoặc Mỹ lái đánh
phá bờ biển hoặc hải đảo BV những nơi được coi là xuất phát xâm nhập, yểm trợ
VC tại miền nam, đánh rồi chạy (hit and run) .
DESOTO là một phần
của hệ thống thám thính toàn cầu bằng điện tử do những tầu hải quân Mỹ chạy
ngoài hải phận quốc tế. Những tầu này thu lượm những tín hiệu của radar, những
truyền tin từ các trạm trên bờ các nước
CS như Nga, Trung cộng, Bắc Hàn, Bắc Việt cũng giống như Nga dùng tầu lưới cá tại
bờ biển Mỹ.
Tối 30-7 -1964, tầu
tuần duyên của VNCH tấn công hai hải đảo thuộc vịnh BV được cho là dùng để yểm
trợ xâm nhập miền nam VN. Sáng hôm sau khu trục hạm Mỹ Maddox đi vào vịnh (chiến
dịch DESOTO ) rất xa các đảo. Hai ngày rưỡi sau tức 2-8 lúc 3 giờ 40 (giờ VN, tức
3 giờ 40 sáng Mỹ) tầu Maddox báo cáo bị những tầu tuần duyên cao tốc đuổi theo,
một lúc sau bị tấn công bằng ngư lôi và súng tự động nhưng Maddox không bị
trúng đạn hoặc hư hại. Thủy thủ lấy được những mảnh đạn trên boong tầu mà
McNamara yêu cầu gửi cho ông làm bằng chứng. Trong quân sử của BV, họ xác nhận
đã đưa ra lệnh tấn công Maddox, khi biến cố sẩy ta khu trục hạm này nằm ở hải
phận quốc tế, cách bờ biển BV hơn 25 dặm.
Lúc 11:30 sáng
(2-8) Tổng thống Johnson họp các cố vấn để nghiên cứu tình hình. Mọi người tin
là do cấp chỉ huy địa phương BV hơn là do cấp lớn đã khởi động. Tổng thống vì
thế không trả đũa mà chỉ gửi kháng thư cho Hà Nội, ông vẫn cho tiếp tục tuần tiễu,
cho thêm khu trục hạm C.Turner Joy đi kèm. Maxwell Taylor, Đại sứ Mỹ tại Sài
Gòn phản đối tại sao không giáng trả BV, có thể coi như Mỹ lùi bước không dám đối
đầu với CS.
Vào lúc 3 giờ chiều
hôm sau Dean Rusk (bộ trưởng ngoại giao) và McNamara thuyết trình cho các Thượng
nghị sĩ thuộc Ủy ban ngoại vụ và Ủy ban quân sự để diễn tả chiến dịch 34A,
DESOTO và tại sao Tổng thống đã không giáng trả địch. Hai ông cũng giải thích
cho biết DESOTO không có ý khiêu khích BV để tầu Maddox bị tấn công, vẫn tiếp tục
chiến dịch DESOTO.
Vào lúc 7 giờ
sáng (7 giờ chiều VN) ngày 4-8 tầu Maddox cho biết bị tầu lạ tấn công. Một giờ
sau tầu Maddox nói radar cho thấy ba tầu lạ. Hàng không mẫu hạm Ticonderoga ở gần
đó đã cho máy bay tới yểm trợ hai tầu Mỹ Maddox và Turner Joy. Trời nhiều mây,
có mưa bão lớn rất khó quan sát. Mấy tiếng sau hai tầu này báo cáo bị hơn hai
mươi ngư lôi tấn công, thấy vệt sóng của ngư lôi, ánh đèn chiếu sáng trên boong
tầu địch, súng tự động nhả đạn, radar của tầu Mỹ có báo hiệu.
McNamara cùng
ông phụ tá họp với bộ tham mưu để đối phó. Mọi người đồng ý nếu báo cáo này
đúng, cần trừng trị thích đáng kẻ tấn công tầu Mỹ ngoài hải phận quốc tế , vì thế họ vội triển
khai ngay kế hoạch cho máy bay từ hàng không mẫu hạm đánh phá bốn căn cứ tầu tuần
duyên và và hai kho nhiên liệu. Lúc 11 giờ 40 sáng, McNamara họp với Dean, Mac
(Bundy) và các Tướng khác để duyệt lại quyết định, họ tiếp tục bàn tại phiên họp
tại Hội đồng an ninh QG và họp với Tổng
thống. Johnson đồng ý lần này nếu được xác nhận đúng cần phải trừng trị nhanh
và mạnh.
Vấn đề còn lại là
cuộc tấn công lần thứ hai có thật không?
Như đã nói tầm
nhìn khi bị tấn công đợt hai rất hạn chế, vì thế và vì tiếng động máy dò tầu ngầm
thường không đáng tin lắm cho thấy báo cáo về cuộc tấn công đợt hai (4-8) không
chắc chắn lắm. Vì thế McNamara cố điều tra để tìm sự thật, ông yêu cầu Trung tướng
David A Burchinal liên lạc hỏi Đô đốc Sharp ở Honolulu để biết hư thực. Lúc 1 giờ 27 chiều đại úy Herrick, người điều
hành DESOTO trên tầu Maddox cho biết tin tức về việc bị tấn công bằng ngư lôi
có vẻ nghi ngờ. Thời tiêt xấu ảnh hưởng radar có thể gây lên báo cáo đó, đề nghị
lượng giá lại trước khi hành động. Bốn mươi phút sau Đô đốc Sharp gọi cho tướng
Burchinal nói mặc dù đại úy Herrick nói thế nhưng ông vẫn tin là cuộc tấn công
lần thứ hai (4-8) là có thật. McNamara gọi hỏi thẳng Sharp, ông này cho biết có vài nghi ngờ xong
cũng tin có bị tấn công bằng một số ngư lôi, tầu Turner Joy báo cáo đánh chìm
ba tầu tuần duyên, Maddox báo cáo đánh chìm một hoặc hai cái. McNamara nói khi
nào biết chắc là có thật thì sẽ trả đũa. Sharp nói có thể có và sẽ điều tra
thêm.
Lúc 4 giờ 47
McNamara họp với các tham mưu trưởng duyệt các chứng cớ liên quan cuộc tấn
công, có năm yếu tố cho thấy cuộc tấn công có thật. Tầu Turner Joy bị chiếu
sáng khi bị bắn bằng súng tự động, một trong hai khu trục hạm thấy đèn pha trên
boong tầu tuần duyên, súng phòng không của họ đã bắn hai phi cơ Mỹ bay ở trên,
đã bắt được và giải mã một bản tin của BV được biết họ có hai chiếc tầu bị bắn
chìm. Đô đốc Sharp nói có thể có tấn công ngày 4-8. Đến 5 giờ 23 Đô đốc gọi Tướng
Burchinal và nói chắc chắn có tấn công các khu trục hạm Mỹ.
Lúc 6 giờ 15 chiều,
Hội đồng an ninh QG họp, McNamara kể sơ chứng cớ và đề nghị trả đũa. Mọi người
nhất trí hành động, Tổng thống cho lệnh máy bay thuộc Hải quân trừng phạt. Lúc
6 giờ 45 TT Johnson, Dean Rusk, Bus Wheeler (Tham mưu trưởng mới), McNamara họp
với các vị Chủ tịch ủy ban Quốc hội để thuyết trình sự việc, giải thích sự trừng
phạt. Dean nói BV đã cố ý tấn công, ta cần trừng trị giới hạn. Tổng thống nói
ông muốn đưa ra Quốc hội để xin yểm trợ cuộc chiến nếu cần, một số vị dân cử
nói họ sẽ ủng hộ.
Lúc 7 giờ 22 hàng
không mẫu hạm Ticonderoga và Constelletion được lệnh tấn công trả đũa. Tổng cộng
có 64 phi vụ tấn công các căn cứ tuần duyên và kho dầu để trả đũa, chỉ là tấn
công giới hạn
Mấy năm sau,
tháng 2-1968 Thượng viện họp xét lại chứng cớ và chỉ trích tường trình của
chính phủ. Năm 1972, Tordella, phụ tá giám đốc cơ quan an ninh QG kết luận bản
tin nghe được của BV cho là lệnh tấn công ngày 4-8 thực ra là lệnh tấn công
ngày 2-8. Cline, phụ tá giám đốc CIA
1964 trả lời một cuộc phỏng vấn năm 1984 nói thế. Phi công Stockdale, năm 1964
đã bay yểm trợ cho hai khu trục hạm Mỹ tối 4-8, sau này viết hồi ký nói tối hôm
đó khi bay ngang hai khu trục hạm ông ta chẳng thấy cái tầu BV nào cả và nói chắc
không hề có cuộc tấn công này.
Ngày 6-8-1964,
lúc 9 giờ sáng các ông Dean, Bus, McNamara vào phòng họp với Ủy ban Ngoại vụ và
Quân sự Thượng viện để xác nhận vụ tấn
công 2-8 và 4-8 và xin Thượng viện ủng hộ. Dean nhấn mạnh cuộc tấn công này
không phải là biến cố riêng mà nó nằm chung trong kế hoạch xâm chiếm miền Nam
và các nước Đông nam Á. Sau đó nói chi tiết hai vụ tấn công, Tướng Bus cho biết các TMT nhất trí trả đũa,
đó là thích đáng.
McNamara cho rằng
Quốc hội hiểu quyền hạn rộng lớn mà Nghị quyết dành cho Tổng thống, nhưng chắc
Quốc hội hiểu rằng Tổng thống sẽ không dùng nó mà không tham khảo cẩn thận tường
tận với Quốc hội
Hôm sau, lưỡng viện
bỏ phiếu bầu ngày 7-8. Thượng Viện thông qua Nghị quyết Tonkin Gulf Resolution
với tỷ lệ 88-2, Hạ viện bỏ phiếu thuận hoàn toàn 416-0, tỷ lệ chung là 99.60%.
Nhiều người chỉ
trích (sau này) cho rằng chuyện Vịnh có nhiểu âm mưu giả dối, họ lên án chính
phủ mong được Quốc hội ủng hộ cuộc chiến tại Đông Dương, soạn thảo một nghị quyết,
khiêu khích địch gây ra biến cố để được ủng hộ, McNamara nói những chỉ trích
này vô căn cứ
Tổng thống không
hề nghĩ Nghị quyết cần để đưa quân vào VN mà vài vị Tham mưu trưởng đã đề nghị
từ tháng 1-1964, việc đưa quân vào cần
có Quốc hội chấp thuận. Bộ Ngoại giao đã soạn một Nghị quyết từ cuối tháng năm
nhưng vì Max Taylor khuyên nên hoãn chiến dịch quân sự tới tới mùa thu.
Johnson, Dean, Mac, McNamara đồng ý và
đã quyết định hoãn đưa dự thảo Nghị quyết ra Quốc hội chờ khi Đạo luật Nhân quyền
đã được Thượng viện chấp thuận tháng Chín
Nhưng khi BV tấn
công, Johnson thấy đó là cơ hội để được Quốc hội ủng hộ cuộc chiến chống lại âm
mưu xâm lược của Hà Nội, hành động của ông cứng rắn nhưng vẫn ôn hòa so với ứng
cử viên diều hâu Goldwater của đảng đối lập.
Năm 1977, George
Ball (cựu thứ trưởng ngoại giao 1964) trả lời phỏng vấn đài BBC chỉ trích chính
phủ đã mở chiến dịch DESOTO khiêu khích BV để có cớ trả đũa. Ngược lại Bill
Bundy (CIA, cố vấn ngoại vụ TT 1964) cũng đã nói chuyện trên BBC, ông ta phủ nhận
những lời cáo buộc như trên, theo Bill tình hình lúc đó (tại VNCH) chưa tồi tệ
đến nỗi phải có biện pháp mạnh. Bill
nói “Không có chuyện Chính phủ cố
tình khiêu khích để tạo ra biến cố ấy” (2)
McNamara cho rằng
nếu Nghị quyết vịnh Bắc Việt đã không đưa tới sự can thiệp quân sự lớn lao tại
VN thì nó đã không gây nhiều tranh cãi như vậy. Nhưng nó dùng để mở cửa cho
dòng thác lũ (đưa quân vào), McNamara nói tuy nhiên cho rằng chính phủ Johnson
lừa gạt Quốc hội là sai. Vấn đề không phải là Quốc hội không nắm được khả năng
của Nghị quyết mà là nhưng là không nắm được tiềm lực của cuộc chiến và chính
phủ có thể đối phó với nó như thế nào. Trong phiên họp ngày 20-2-1968 để duyệt
lại vấn đề này, Thượng nghị sĩ Fulbright vui vẻ từ bỏ lời đã kết án McNamara cố
ý khiến cho Quốc hội sai lầm, ông nói “Tôi không bao giờ có cảm tưởng rằng tôi
đã nghĩ ông cố tình gạt chúng tôi”, các Thượng nghị sĩ Mansfield , Claiborne
Pell và Symington cũng xác nhận thế (3)
McNamara kết luận
cơ bản của vấn đề Vịnh Bắc Việt không phải là sự lừa gạt nhưng nói đúng hơn là
sự lạm dụng quyền hạn từ Nghị quyết. Ngôn ngữ của Nghị quyết cho Tổng thống quyền
hành xử, và Quốc hội hiểu tầm vóc của quyền hạn khi họ ủng hộ tối đa Nghị quyết
ngày 7-8-1964. Nhưng chắc chắn là Quốc hội không có ý định cho phép xa hơn
trong việc tăng vọt từ 16,000 lính Mỹ
lên 550,000 tại VN mà không tham khảo đầy đủ với Quốc hội. Nó khiến chiến tranh
mở rộng lớn có nguy cơ kéo Nga, Trung Cộng vào cuộc và đã mở rộng sự can thiệp
của Mỹ tại VN trong nhiều năm.
Vấn đề Quyền hạn
của Quốc hội đối nghịch với quyền Tổng thống về điều động quân đội vẫn còn
tranh cãi cho tới nay. Căn nguyên của sự tranh chấp này nằm ở chỗ văn tự Hiến
Pháp mơ hồ, nó trao Tổng thống quyền Tổng tư lệnh nhưng lại cho Quốc hội quyền
tuyên chiến.
Những nhận định
khác.
Trên đây là nội
dung vấn đề theo diễn tả và ý kiến của McNamara, nhân vật đóng vai trò then chốt
trong chiến tranh VN giai đoạn 1963-1968. Tôi xin ghi thêm nhận xét và ý kiến của
các chính khách và nhà nghiên cứu khác để vấn đề được nhìn thêm dưới nhiều khía
cạnh. Về cuộc tấn công hai ngày 2-8 và 4-8 qua sự tường thuật của các tác giả
có khác nhau về chi tiết, có thể vì do tam sao thất bản, tôi chú trọng về ý kiến
riêng của họ nhiều hơn
Về biến cố này cựu
Tổng thống Nixon nói (4) ngày 2-8 tầu tuấn duyên BV tấn công khu trục hạm
Maddox tại vịnh trên bằng ngư lôi nhưng không gây thiệt hại, và sau đó ngày 4-8
họ lại tấn công hai tầu Maddox và C Turner Joy.
Nhiều năm sau, các ký giả phản chiến xác định rằng cuộc tấn công 4-8 của
BV không hề có, họ kết án Johnson và quân đội ngụy tạo ra để lấy cớ can thiệp
vào cuộc chiến. Nixon kết luận là không có chứng cớ nào cho thấy Mỹ khiêu
khích, ngay quân sử của BV cũng kể lại chuyện này.
Ông cũng nói Nghị
quyết vịnh BV không phải là mưu mẹo để được rộng quyền tham chiến như một số
người kết án nhưng nó là một cố gắng lương thiện để được Quốc hội yểm trợ cho
việc can thiệp sâu rộng hơn mà nó buộc ta phải gánh vác. Nghị quyết của Johnson
không phải là lý do người Mỹ vào VN, nó xác nhận rằng các cuộc tấn công này chỉ
là một phần của chiến dịch xâm lược có hệ thống của CSBV đối với các nước láng
giềng, các nước liên kết chiến đấu cho tự do. Quốc hội chấp thuận và ủng hộ quyết
định của Tổng thống, với cương vị Tổng tư lệnh, bằng mọi cách đẩy lui những lực
lượng gây hấn với Hoa Kỳ và phòng ngừa
những gây hấn trong tương lai.
Nixon nói “Chúng
ta không lâm chiến vì hai cuộc tấn công nhỏ ngoài khơi nhưng vì Bắc Việt đang
ra sức chiếm trọn Đông dương” (5). Nhiều người trách Johnson không xin Quốc hội
tuyên chiến. Quốc hội và Ngũ giác đài
không tuyên chiến vì họ không ngờ cuộc chiến lại kéo dài như thế,
Johnson tưởng là oanh tạc chiến thuật tại miền nam VN và oanh tạc giới hạn tại
BV sẽ khiến Hà nội từ bỏ xâm lược, tuyên chiến có thể lôi kéo Nga Trung Cộng nhập
cuộc. Johnson không muốn chiến tranh khi ông chuẩn bị ứng cử Tổng thống năm
1964. Hạ viện chỉ họp trong bốn mươi phút
và đồng thuận 100% (480-0), Thượng
viện bàn thảo 8 tiếng cuối cùng bầu với 88 thuận, 2 chống. Nixon nói sự kiện chứng
tỏ Quốc hội đã ủng hộ vô cùng vững chắc.
Những người ủng hộ
Nghị quyết về sau họ chống chiến tranh kết án Johnson lừa gạt Quốc hội để vượt
quá quyền hạn của mình. Nixon cho là không phải như thế, bản ghi âm cuộc thảo
luận tại Thượng viện cho thấy Quốc hội tham chiến với con mắt mở to, hoàn toàn
tự nguyện. Nghị quyết này không phải chỉ là căn bản hợp pháp để lâm chiến,
Johnson cũng hành động phù hợp với những điều khoản an ninh của Tổ chức Liên
phòng Đông nam Á (SEATO). Vả lại Quốc hội cũng hành xử quyền hạn chiến tranh của
mình hàng năm khi họ chi tiền cho quân đội Mỹ tại VN.
Tác giả Bernard C.
Nalty (6) nói ngày 2-8 ba tầu tuần duyên BV đuổi theo tầu Maddox đang ở ngoài hải
phận quốc tế, tầu BV đã phóng ba ngư lôi nhưng không trúng mục tiêu. Tầu Maddox
bắn trả bằng đại bác 127 ly gây thiệt hại nặng cho hai tầu BV, phi cơ từ hàng
không mẫu hạm Ticonderoga tới yểm trợ.
Về cuộc tấn công
ngày 4-8, Nalty nói BV gây hấn hay người Mỹ tưởng tượng? ông tỏ vẻ nghi ngờ biến
cố này. Hôm sau Tổng thống Johnson cho tăng cường thêm khu trục hạm C Turner
Joy, ngày 4-8 người chuyên viên radar trên tầu Maddox báo cáo có năm tầu phóng
ngư lôi đang đuổi theo, sau đó cả hai thuyền trưởng của Maddox và C. Turner Joy
quả quyết là họ bị tấn công và gọi máy bay yểm trợ đồng thời cho khai hỏa, họ
báo cáo là bắn chìm hai tầu BV và làm hư hại hai cái khác.
Theo tác giả có
nhiều chỉ trích gồm cả các viên chức tình báo, lời của họ đã được viết vào Văn
kiện Ngũ giác đài, sau này nó xác nhận “tầu địch” chẳng qua chỉ là những tiếng
“blip”của radar do những đợt sóng phía sau tầu C Turner Joy gây ra mà những
chuyên viên radar chưa có kinh nghiệm của tầu Maddox đã tưởng lầm. Tuy nhiên
các vị chỉ huy tại chiến trường xác nhận là có tấn công và tin rằng BV đáng bị
trừng phạt giới hạn, Tổng thống Johnson quyết định trả đũa, cho không kích các
căn cứ xuất phát tấn công nhưng không có mục đích mở rộng chiến tranh. Các phi
cơ từ hàng không mẫu hạm Ticonderoga và Constellation tấn công bốn căn cứ hải
quân và một kho dầu của BV. Khoảng 25 tầu tuần duyên bị phá hủy, 90% các kho dầu
tại Vinh bị bốc cháy. Hai máy bay Mỹ bị phòng không bắn rơi, hai chiêc khác bị
hư hại.
Thăm dò cho thấy
sau cuộc tấn công trả đũa, người dân Mỹ ủng hộ hành động của Johnson rất cao.
Tác giả Marilyn B.
Young (7) nhận xét: nhiều năm sau Nghị quyết khi sự lừa dối được phát hiện và Quốc hội muốn tự
tách ra khỏi cuộc chiến mà chính họ đã phê chuẩn năm 1964, nhiều Thượng nghị sĩ
than phiền rằng nếu họ biết sự thật thì họ đã chống lại Nghị quyết. Dân biểu
Dante , Florida nói ông Tổng thống có nhu cầu quyền hạn, một biến cố tình cờ có
thể đem lại quyền lực cho ông. Quốc hội nghĩ oanh tạc BV sẽ khiến họ chấm dứt
chiến tranh. Họ cũng nghĩ như Hành pháp, nếu Mỹ khiến CS trả giá cao thì sẽ ngưng
xâm lược miền nam. James Thomson (1964 trong Hội đồng an ninh GQ) trong một
phiên họp của Thượng viện năm 1968 nói biến cố Vịnh lần sau (4-8) là cách thuận
lợi chứng tỏ ý chí của chung mà chẳng cần có chứng cớ rõ ràng để tham dự cuộc
chiến. Thượng viện sau này đánh giá Hành pháp Johnson sai lầm khi nghĩ rằng
dùng oanh tạc hay sức mạnh quân sự có thể khiến Hà nội bị khuất phục.
Không cần biết
chuyện gì sẩy ra ở Vịnh BV , việc đưa ra Quốc hội thành công mà các cố vấn của
Tổng thống đã khuyên ông làm để đưa Hoa Kỳ vào cuộc chiến. Theo Marilyn B.
Young Hà nội quyết tâm đi vào cuộc chiến, tháng 10-1964 họ đã đưa ba trung đoàn
chính qui khoảng 4,500 người vào Nam, chiến dịch oanh tạc của Johnson không khiến
Hà nội phải đầu hàng mà còn mở rộng cuộc chiến hơn nữa, cuối cùng Johnson không
tìm được hòa bình như ông đã hứa với người dân.
Tác giả Stanley
Karnow (8) nói tổng cộng cuộc oanh kích trả đũa BV của Johnson gồm 64 phi vụ,
có khoảng 25 tầu bị phá hủy hoặc hư hại, Mỹ bị mất hai máy bay. McNamara hồi đó cho biết ông đã có bốn công
điện của BV cho thấy họ cho lệnh tấn công tối 4-8, những công điện này được giữ
bí mật từ đó. Nhưng hoặc ông hiểu sai công điện hay cố tình dấu diếm nó, theo một
cựu viên chức Mỹ rành về những bản truyền tin của địch thì đó không phải là lệnh
tấn công (attack orders) mà McNamara hiểu nhưng là lệnh của bộ chỉ huy cho các
tầu tuần duyên chuẩn bị tác chiến (military operations) mà có thể là tự vệ. Ray
Cline phụ tá giàm đốc CIA hồi đó, đã phân tách sự khác biệt chính giữa hai cuộc
tấn công là: sau khi duyệt xét những hồ sơ thì chỉ thấy nó liến quan đến cuộc tấn
công trước (2-8)
Kết Luận
Những năm đầu thập
niên 60, người dân Mỹ và Quốc hội ủng hộ mạnh mẽ cuộc chiến tranh VN vì quá sợ
CS, họ tin rằng nếu mất miền nam VN hay Đông dương sẽ mất Đông nam Á. Tất cả
sách báo, thống kê về giai đoạn này, nhất là 1964 đều nói đa số, đại đa số người
dân, thậm chí có tài liệu nói 78% hoặc 85% (9) ủng hộ cuộc chiến, đại đa số Quốc
hội ủng hộ cuộc chiến. Tháng 8-1964 Johnson đưa ra Quốc hội xin Nghị quyết Đông
nam Á và đã được chấp thuận với tên Nghị quyết Vịnh Bắc Việt ngày 7-8-1964 với
tỷ lệ tối đa 99.60% số phiếu thuận choTổng thống can thiệp vào cuộc chiến ngăn
chận CS tại VN.
Trường hợp nếu
Johnson -McNamara dùng oanh tạc khuất phục được BV, mang lại hòa bình thì sẽ
không có ai đề cập tới Nghị quyết này. Nhưng sau khi được Quốc hội cho phép
hành động, Johnson McNamara đã đem hơn nửa triệu quân vào miền nam VN trong mấy
năm chiến tranh nhưng không thắng được CS, cuộc chiến ngày càng mở rộng. Sau trận
Tết Mậu Thân tháng 2-1968 số người ủng hộ chiến tranh tụt thang nhanh chóng, tỷ
lệ chống chiến tranh tăng nhanh. Khi ấy người ta kết tội Johnson đã gây lên cuộc
chiến sa lầy, họ bèn xét lại Nghị quyết và lên án ông đã lừa gạt Quốc hội để
đưa nước Mỹ can thiệp vào VN. Sau đó tới màn bới lông tìm vết, vạch lá tìm sâu
và duyệt xét lại Nghị quyết để kết luận không có cuộc tấn công lần thứ hai ngày
4-8 của tầu tuần duyên BV mà do McNamara và ban tham mưu bịa ra trình Tổng thống
lường gạt Quốc hội, nghĩa là chỉ Johnson McNamara là chịu trách nhiệm, người
dân và Quốc hội không có gì đáng chê trách!
Như đã nói trên
buổi chiều tối 4-8 chuyên viên radar trên tầu Maddox cho biết nhận được tín hiệu
bị tấn công bằng ngư lôi, các thủy thủ trên tầu Turner Joy xác nhận đã nhìn thấy
đèn pha chiếu sáng từ tầu địch và thấy súng tự động bắn, súng phòng không bắn
hai máy bay Mỹ bay trên cao (10). Hai thuyền trưởng trên hai khu trục hạm
Maddox và C Turner Joy báo động và ra lệnh bắn trả tối đa về hướng nghi ngờ,
không có lửa tại sao lại có khói?
Thuyền trưởng kêu gọi không quân yểm trợ, Stockdale một trong các phi công từ hàng
không mẫu hạm bay tới, ông đảo trên trời một tiếng rưỡi và không thấy chiếc tầu
nào của BV mà chỉ thấy tầu Mỹ bắn loạn xạ trên mặt biển, sau này viết hồi ký kể
lại như vậy
Đô đốc Sharp, Tư
lệnh Thái bình dương dựa theo báo cáo của hai thuyền trưởng để tường trình với
McNamara và ông này trình lên Tổng thống như đã nói trên. Mặc dù chứng cớ về cuộc
tấn công này có vẻ mơ hồ nhưng phản bác của những người chống đối cũng không có
gì là cụ thể, chỉ là “lý sự”, thí dụ họ nói các chuyên viên radar thiếu kinh
nghiệm, tưởng lấm, những năm sau giải mật các bản công điện của BV thì thấy chắc
là lệnh tự vệ chứ không phải lệnh tấn công. Đó cũng chỉ là một cách hiểu khác,
giải thích khác cũng như người ta giải nghĩa những câu văn trong Kinh Dịch, mỗi
người hiểu một cách. Ngoài ra những bản công điện, vô tuyến điện thoại của BV
chưa chắc đáng tin cậy, họ thường đưa tin giả để nghi binh, Đại tá Nguyễn trọng
Luật, cựu tỉnh trưởng Ban mê Thuột cho biết CSBV thừa biết đối phương hay nghe
lén điện thoại, công diện nên họ đã đưa nhiều tin giả để lừa địch.
Nhưng vấn đề là
Johnson McNamara có cần phải khiếu khích BV và tạo biến cố giả tại Vịnh Bắc việt
để đánh lừa Quốc hội hay không trong khi cuộc chiến giữa Mỹ-VNCH với Hà nội đã
thực sự diễn ra từ 1959? :
Ngày 13-5-1959 tại
Hà Nội, CSBV đã mở Hội nghị thứ 15, ra Nghị quyết phát động chiến tranh chiếm
miền nam bằng vũ lực (11). Họ thành lập đoàn 559 đưa người vũ khí xâm nhập miền
nam qua Lào và hai tháng sau đoàn 779 xâm nhập đường biển. Năm 1959 có hơn
2,500 vụ ám sát các viên chức chính phủ, gấp hai lần năm 1958 (12). Ngày
12-12-1960, CSBV thành lập Mặt trận giải phóng miền nam tại Hà nội, chính thức
ra mắt ngày 20-12-1960 (13). Ngày 18-9-1961 hai tiểu đoàn VC chiếm tỉnh lỵ Phước
Thành trọn một ngày, giết tỉnh trưởng, phó tỉnh trưởng và 10 công chức, tổng cộng
có 17,000 cán binh xâm nhập miền nam. Ngày 18-10-1961 Tổng thống VNCH ban hành tình trạng khẩn cấp toàn quốc (14).
Năm 1962 cố vấn Mỹ gia tăng 11,300 người, quân đội VNCH tăng lên 220,000 người
(15).
Đầu tháng 1-1963
trận Ấp Bắc thuộc tỉnh Mỹ Tho, VC bắn rơi
4 trực thăng Mỹ và bắn cháy ba
M113, VNCH thiệt hại 63 người, Mỹ có 3 người chết, VC chết 41 nguời
(16). Ngày 23-11-1963 tại trận Hiệp Hòa, tỉnh Hậu Nghĩa có 41 Dân sự chiến đấu
miền nam bị giết, 120 bị thương , 32 mất tích, VC bỏ lại 7 xác, 4 lực lượng đặc
biệt Mỹ mất tích (17). Ngày 1-1-1964 VC pháo kích phi trường Biên hòa, phá hủy
6 máy bay B-57, làm hư hại 20 cái khác , giết
5 người Mỹ, 2 VN, 76 bị thương (18). Từ 1959 cho tới 1962 có 100 cố vấn
Mỹ bị giết, tới cuối 1964, tổng cộng có 416 người Mỹ bị giết chưa kể số người bị
thương và bị bắt làm tù binh (19). Từ cuối 1964, đầu 1965 Hà nội công khai đưa
quân chính qui vào nam. Như thế chiến tranh đã diễn ra rất sôi động rồi, cần gì
phải tìm lý do?
Johnson chẳng thiếu
gì chứng cớ để xin Quốc hội ủng hộ, đâu cần phải ngụy tạo biến cố Vịnh Bắc Việt
? dù có hay không Nghị quyết thì cuộc chiến tranh giữa Mỹ-VNCH với Hà nội đã diễn
ra từ lâu rồi.
Ngoài ra Johnson
không phải diều hâu, ông chủ trương hòa bình, dùng oanh tạc đe dọa để Hà nội thấy
cái giá phải trả mà từ bỏ cuộc chiến xâm lược, khác với ứng cử viên đối lập Goldwater
chủ trương đánh mạnh hơn nữa. Năm 1965 khi tình hình quân sự tại miền nam rất xấu,
Cộng quân gia tăng xâm nhập tấn công liên tục, Quân đội miền nam bị thiệt hại
nhiều, Tướng Westmoreland khẩn khoản xin McNamara và Johnson gửi thêm quân tác
chiến để cứu nguy miền nam. Mặc dù vậy, Johnson vẫn chần chừ, ông thăm dò các cố
vấn, hỏi ý kiến cựu Tổng thống Eisenhower đến khi mọi người khuyên ông phải
tăng quân theo yêu cầu của Tư lệnh, Johnson mới chịu dấn thân. Ông leo thang
khi Hà Nội đã gia tăng xâm nhập, tấn công mạnh để làm sụp đổ VNCH. Trong khi đại
đa số người dân, Quốc hội ủng hộ cổ võ cuộc chiến, nó đã gián tiếp lôi cuốn
Johnson can thiệp, ông tham gia cuộc chiến để khỏi mất phiếu vì bị cho là nhu
nhược
Nguyên do TT
Johnson không muốn tham gia cuộc chiến VN vì sợ nó sẽ làm hỏng chương trình chương trình phúc lợi xã hội
Great Society của ông gồm medicaire, cải tổ di dân, chống nghèo, làm dịu kỳ thị
chủng tộc, nâng đỡ nhân quyền…. Johnson nghĩ ngân sách quốc phòng sẽ làm hỏng
chương trình xã hội của ông.
Nếu nói là
Johnson lừa gạt Quốc hội để được chấp thuận Nghị quyết Vịnh BV 1964 rồi đem
quân vào VN là không đúng tí nào vì dù không có Nghị quyết này ông vẫn có thể
đem quân vào VN mà không cần đưa ra Quốc hội vì hồi đó chưa có Nghị quyết War
Powers Resolution, giới hạn quyền Tổng thống trong chiến tranh mà mãi tới năm
1973 mới có.
(Tháng 8- 1973
War Powers Resolution được ban hành, nó qui định TT phải tham khảo Quốc Hội trước
khi tham chiến. Sau khi tham khảo, TT có quyền tham chiến trong 60 ngày không cần
sự chấp thuận của Quốc Hội và thêm 30 ngày nữa….)
Trường hợp TT
Johnson gần giống TT Bush năm 2003 khi ông đã được Quốc hội và người dân ủng hộ
cuộc chiến Iraq, nhưng mấy năm sau khi bị sa lầy người ta chỉ trích ông lừa gạt
người dân vì không tìm thấy vũ khí giết người hàng loạt. Tuy nhiên trường hợp
Johnson có hơi khác là ông không muốn tham chiến vì chuẩn bị ứng cử, vì chương
trình phúc lợi xã hội.. còn Bush muốn chiến tranh, nhiều người nói cuộc chiến
Iraq là do ý muốn của chính ông.
Người ta chỉ trích
chiến dịch oanh tạc BV thất bại, Johnson không làm cho BV chịu thua cuộc nhưng
cả Quốc hội, người dân cũng tin vào kế hoạch này. Không riêng gì Johnson mà cả
nước Mỹ sai lầm vì chủ quan, khinh địch, đánh giá quá thấp đối phương cũng như
CS quốc tế, quá tin tưởng vào sức mạnh của mình. Chiến dịch thất bại một phần
vì hỏa lực phòng không địch rất mạnh, người Mỹ không nghĩ CS quốc tế viện trợ
cho Hà Nội dồi dào như thế, từ đầu chí cuối họ đã cung cấp cho BV 3,229 khẩu
cao xạ; 20,000 tiễn địa-không (SAM) (20)
Phản chiến nói TT
Johnson lừa Quốc hội để có Nghị quyết vịnh BV, từ Nghị quyết này đi tới cuộc
chiến lớn và sa lầy tại VN, có nghĩa vì sự lừa gạt mà đưa tới cuộc chiến VN. Nhận
định này không có căn cứ tí nào vì như đã nói dù không có biến cố vịnh BV
Johnson cũng có những lý do khác để đưa ra Quốc hội, và thậm chí dù không có
Nghị quyết Vịnh BV 1964, ông vẫn có thể đưa quân vào VN được vì ông là Tổng tư
lệnh quân đội, vì tình hình đòi hỏi và vì hồi đó chưa có Nghị quyết hạn chế quyền
Tổng thống (1973).
Những người chống
chiến tranh và cả McNamara sau này cho là cuộc chiến VN sai lầm, nhưng nếu sai
lầm tại sao không rút bỏ VN từ giữa thập niên 60? Tháng 12-1964, Hội đồng quân
lực VNCH đã yêu cầu Quốc trưởng Phan Khắc Sứu và Thủ tướng Trần văn Hương trục
xuất Đại sứ Mỹ Taylor mà họ cho là có thái độ hách dịch (21). Trong tường trình
cuối năm về Tòa Bạch ốc, Taylor có đề nghị rút bỏ miền nam VN (22) nhưng không
được ai chú ý. McNamara (hồi ký trang 320) cho là đáng lý Mỹ phải rút bỏ miền
nam từ cuối 1963 hay cuối 1964 hoặc đầu 1965.
Nói cho oai thôi
chứ trên thực tế Hoa kỳ vẫn bám vào miền nam VN kỹ lắm, mặc dù 1965, 1966 phản
chiến tại Mỹ lên cao, ngay tại miền nam cũng có nhóm quá khích chống chiến
tranh1966 nhưng họ cũng không dám rút bỏ. Người Mỹ chỉ rút bỏ VN năm 1975 sau
khi đã hòa được với CS quốc tế.
Những năm 1964,
1965 Hoa Kỳ có thể lựa chọn hoặc tham chiến hoặc rút bỏ miền nam VN hay không?
Thực ra họ không có con đường nào khác hơn là can thiệp vào cuộc chiến VN để giữ
Đông nam Á, để bảo vệ an ninh cho chính họ, bảo vệ cho chính quyền lợi của nước
Mỹ.
Như thế không thể
kết luận chỉ có Johnson là người đã đưa nước Mỹ vào cuộc chiến sa lầy
Trọng Đạt
Chú thích
(1) McNamara, In Retrospect, The Tragedy and Lessons of
Vietnam, trang 127-143
(2) In Retrospect trang 140
(3) In Retrospect trang 141
(4) No More Vietnams trang 73-76
(5) No More Vietnams trang 74
(6) The Vietnam war, trang 81, 82
(7) The Vietnam war 1945-1990, trang 120-123
(8) Vietnam a History trang 388,389
(9) Vietnam a History trang 390; answer.com, domino theory
(10) In Retrospect trang 134
(11) Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu 1955-1963, trang 152
(12) Nguyễn Đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn tập trang
61
(13) VN Niên Biểu trang 206
(14) VN Niên Biểu trang 228,229
(15) Chiến Tranh VN Toàn Tập trang 61
(16) Sách kể trên trang 63.
(17) Sách kể trên trang 94,95
(18) The World Almanac of The Vietnam War trang 95
(19) National
Archives, Statistical Information about Fatal Casualties of the Vietnam War
(20) Đăng Phong, Năm
Đường Mòn Hồ Chí Minh, nhà xuất bản Trí thức Hà nội 2008, trang 120, 121
(21) Lâm vĩnh Thế, VNCH 1963-1967, Những Năm Xáo Trộn trang
98
(22) In Retrospect, trang 164
No comments:
Post a Comment